Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 131/2024/QĐ-PQTT NGÀY 27/6/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

04/04/2025

1. Nội dung vụ việc có liên quan 

Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã giải quyết tranh chấp về Hợp đồng dịch vụ số 0506/2022/HDDV/BCM-TLM (viết tắt là “Hợp Đồng 0506”) giữa Nguyên đơn là Công ty TNHH B (Sau đây gọi tắt là “Công ty B”) và Bị đơn là Công ty Cổ phần T6 (gọi tắt là “Công ty T6”).

Sau đó, Bị đơn là Công ty T6 khiếu nại đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp vì lý do:

Thứ nhất, Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các Bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.

Thứ hai, Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài không yêu cầu thu thập chứng cứ quan trọng, cần thiết, có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng làm cho kết quả giải quyết vụ án sai lệch với bản chất của tranh chấp.

Thứ ba, Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật không đúng.

Bị đơn có ý kiến trình bày cụ thể như sau:

Về vấn đề “Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Bị đơn cho rằng, từ khi ký Hợp đồng cho đến khi phát sinh tranh chấp, Bị đơn không đồng ý ký bất kỳ biên bản nghiệm thu hay biên bản xác nhận hoàn thành khối lượng công việc nào với Nguyên đơn. Đồng thời, Bị đơn trình bày rằng Nguyên đơn cũng không thể cung cấp biên bản nghiệm thu theo thỏa thuận và chưa hoàn thành khối lượng công việc theo Hợp đồng. Do đó, Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài đã ban hành Phán quyết chỉ dựa trên các lập luận đơn phương của Nguyên đơn mà không tôn trọng, xem xét đến thỏa thuận giữa hai Bên theo Hợp đồng.

 Về vấn đề “Hội đồng Trọng tài không yêu cầu thu thập chứng cứ quan trọng, cần thiết, có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng làm cho kết quả giải quyết vụ án sai lệch với bản chất của Vụ tranh chấp”, Bị đơn trình bày: Mặc dù Bị đơn đã phản hồi đúng thời hạn và đầy đủ nội dung, nhưng Hội đồng Trọng tài lại nhận định rằng: “Bị đơn đã nhận được Biên bản nghiệm thu từ Nguyên đơn, nhưng không phản hồi đúng thời hạn quy định tại Điều 5.5 Hợp đồng”. Trên cơ sở nhận định này, Hội đồng Trọng tài đã xác định ngày Bị đơn vi phạm Hợp đồng và tính lãi chậm thanh toán từ ngày 01/07/2023. Bị đơn cho rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng trong tố tụng trọng tài, cũng như trong việc đánh giá chứng cứ, dẫn đến bỏ sót những chứng cứ quan trọng và làm sai lệch bản chất Vụ tranh chấp, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết Vụ tranh chấp. Theo Bị đơn, đây là chứng cứ quan trọng nhằm chứng minh rằng, cho đến thời điểm phát sinh tranh chấp, Bị đơn hoàn toàn không có nghĩa vụ thanh toán đối với Nguyên đơn.

 Về vấn đề: “Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật không đúng”, Bị đơn cho rằng việc Hội đồng Trọng tài áp dụng Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định nghĩa vụ trả lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ và áp dụng lãi suất chậm trả với mức lãi suất 10% là áp dụng pháp luật không đúng mà phải tính lãi theo Điều 306 Luật thương mại.

 

Hội đồng xét đơn thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Hội đồng xét đơn) nhận thấy:

Thứ nhất, đối với yêu cầu hủy Phán quyết vì cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Hội đồng xét đơn nhận thấy yêu cầu này thuộc về việc xem xét, đánh giá chứng cứ của Hội đồng Trọng tài và thuộc về nội dung tranh chấp nên Hội đồng xét đơn không xem xét.

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết…………….”. Dựa trên quy định pháp luật, khi giải quyết Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp, Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ về tố tụng. Vì vậy, ý kiến này của Bị đơn không thuộc phạm vi giải quyết của Hội đồng xét đơn.

Thứ hai, đối với yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vì Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài không yêu cầu thu thập chứng cứ quan trọng, cần thiết, có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng làm cho kết quả giải quyết vụ tranh chấp sai lệch với bản chất của vụ tranh chấp. Tại Phán quyết Trọng tài, Hội đồng Trọng tài nhận định: “Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các chứng từ thanh toán theo quy định tại Điều 4 Hợp đồng, Bị đơn đã nhận được Biên bản nghiệm thu từ Nguyên đơn nhưng không phản hồi đúng thời hạn theo Điều 5.5 Hợp đồng, do đó được coi là đã đồng ý với Biên bản nghiệm thu. Vì vậy, việc Bị đơn từ chối nghiệm thu và thanh toán là không phù hợp với quy định của Hợp đồng”. Đồng thời, Hội đồng Trọng tài cũng cho rằng: “Qua trao đổi thư điện tử, Bị đơn đã thừa nhận Nguyên đơn hoàn thành hạng mục công việc”. Trên cơ sở đó, Hội đồng Trọng tài kết luận rằng đã xem xét đầy đủ các tài liệu và chứng cứ do các Bên cung cấp, qua đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Bên cạnh đó, Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài cần thực hiện thủ tục giám định để xác định tỷ lệ hoàn thành thực tế của sản phẩm cũng như giá trị của các sản phẩm đã thực hiện. Chỉ khi có kết quả giám định cụ thể, việc phán quyết mới đảm bảo khách quan và chính xác. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại quy định:“Các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Hội đồng trọng tài để chứng minh các sự việc có liên quan đến nội dung đang tranh chấp”. Tại khoản 1 Điều 19 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC) cũng quy định như sau: “Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ; các bên có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ”[2].

Từ những quy định trên, Hội đồng xét đơn nhận thấy trong trường hợp Bị đơn thấy cần thiết phải thu thập chứng cứ từ đơn vị giám định để xác định tỷ lệ hoàn thành, Bị đơn có trách nhiệm yêu cầu Hội đồng Trọng tài trưng cầu giám định, và Hội đồng Trọng tài không có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện việc này. Do đó, việc Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc xem xét, đánh giá chứng cứ theo Điều 46 Luật Trọng tài thương mại là không có cơ sở để chấp nhận.

Hội đồng xét đơn nhận thấy: Đối với yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vì Bị đơn cho rằng cho rằng Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật không đúng. Hội đồng xét thấy mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ba ngân hàng: Ngân hàng TMCP C (18,75%), Ngân hàng TMCP N1 (15,75%) và Ngân hàng N2 (15%) là 16,5%/năm. Việc Hội đồng Trọng tài áp dụng lãi suất chậm thanh toán 10%/năm, thấp hơn mức trung bình của 3 Ngân hàng trên và có lợi cho Bị đơn, do đó Hội đồng xét đơn không xem xét lại việc áp dụng pháp luật theo quy định Điều 306 Luật Thương mại.

Căn cứ theo quy định pháp luật và tình hình thực tế Vụ tranh chấp, Hội đồng xét đơn nhận định: Các căn cứ đề nghị hủy Phán quyết Trọng tài chủ yếu là những nhận xét, đánh giá theo quan điểm của Bị đơn và tại Phiên họp xét đơn, đại diện theo ủy quyền của Bị đơn cũng không đưa ra được căn cứ pháp lý nào theo quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để Hội đồng xét đơn xem xét. Vì vậy, yêu cầu huỷ Phán quyết Trọng tài của Bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận.

2. Trích dẫn nội dung Bản án, Quyết định có liên quan

TÒA ÁN NHÂN DÂN                       CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH                     Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                      

Số: 131/2024/QĐ-PQTT                 Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 6 năm 2024

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC KHÔNG HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa: Bà Hoàng Thị Bích Thảo

Các Thẩm phán:  Ông Đỗ Quốc Đạt

                             Bà Trương Thị Quỳnh Trâm

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp: Bà Huỳnh Thị Kim Tuyến- Kiểm sát viên.   

Thư ký ghi biên bản phiên họp: Ông Nguyễn Đức Tuấn - Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là TP.HCM)    

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài nộp ngày 18/03/2024 của Công ty Cổ phần T6 (sau đây gọi là Công ty T6) là Bị đơn trong Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp ngày 21/02/2024 của Trung tâm trọng tài X tại TP.HCM với nguyên đơn là Công ty TNHH B (sau đây gọi tắt là Công ty B).

Các bên tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gồm:

  • Bên yêu cầu: Công ty Cổ phần T6 (sau đây gọi là Công ty T6)
  • Bên liên quan: Công ty TNHH B (sau đây gọi tắt là Công ty B) 

Căn cứ vào các đơn yêu cầu, văn bản của các bên nộp cho Tòa án và trình bày tại phiên họp hôm nay.

NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP 

1/ Theo Công ty TNHH B trình bày:

Ngày 30/6/2022, Công ty Cổ phần T6 (Viết tắt Công ty T6) và Công ty TNHH B (viết tắt Công ty B) ký kết Hợp đồng dịch vụ số 0506/2022/HDDV/BCM-TLM (viết tắt Hợp Đồng 0506), theo đó Công ty B đồng ý cung cấp dịch vụ “Làm mới thương hiệu của TLM và thương hiệu của Dự án khu dân cư” tại xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai, với giá trị hợp đồng là 2.852.080.000 đồng (đã bao gồm VAT).

Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T6 thanh toán chi phí dịch vụ đợt 1 là 1.140.832.000 đồng. Sau đó vì kế hoạch của Công ty T6 bị thay đổi kéo dài thời gian ra mắt đự án nên các bên thỏa thuận gia hạn hợp đồng đến ngày 30/9/2022 và gia hạn tiếp đến ngày 04/10/2022.

.……………….

Ngày 28/4/2023, Công ty B có Thông báo số 280423/TB/BCM-TLM yêu cầu Công ty T6 thanh toán số tiền 999.152.000 VNĐ.

Tại Điều 11 của Hợp Đồng 0506 có thỏa thuận trường hợp các bên không thể giải quyết bằng thương lượng thì tranh chấp đó sẽ được đưa ra Trung tâm Trọng tài X.

Do Công ty T6 không thanh toán, ngày 25/8/2023 Công ty B đã khởi kiện đến Trung tâm Trọng tài X yêu cầu Công ty T6 thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền 999.152.000 VNĐ: Tiền lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ (tạm tính đến ngày 08/8/2023) là 97.561.034 VNĐ; Tiền phạt vi phạm hợp đồng (tạm tỉnh đến ngày 08/8/2023) là 55.353.021 VNĐ; Chi phí pháp lý là 52.920.000 VNĐ và chi phí trọng tài theo quyết định của Hội đồng Trọng tài.

2/ Theo Công ty T6 trình bày:

Việc ký kết hợp đồng và số tiền ứng đợt 1 như Công ty B trình bày.

Ngày 31/8 2022 quá hạn theo thỏa thuận Hợp đồng nhưng Công ty B vẫn chưa hoàn thiện các hạng mục của Hợp đồng.

Ngày 15/9/2022, Công ty B phát hành giấy đề nghị thanh toán đợt 2 với số tiền 1.099.347.200 VNĐ mà không cung cấp hồ sơ theo quy định điểm b Điều 4 của Hợp đồng. Ngày 23/9/2022, Công ty T6 phát hành Văn bàn số 06/2022/CV-TLM không đồng ý thanh toán và đề nghị chấm dứt Hợp đồng.

.……………….

Tại Đơn kiện lại ngày 08/11/2023, Công ty T6 nêu căn cứ Văn bản số 156/2023/CV-TLM của Công ty T6 chỉ đồng ý nghiệm thu khối lượng công việc mà Công ty B đã thực hiện Hợp đồng là 645.000.000 VNĐ, cộng thêm 8% thuế VAT tổng là 696.600.000 VNĐ. Do đó, Công ty T6 có đơn kiện lại yêu cầu Công ty B hoàn trả số tiền 616.670.400 VNĐ. Trong đó, số tiền Công ty B chưa hoàn thành khối lượng công việc theo thỏa thuận là 444.232.000 VNĐ (1.140.832.000 VNĐ - 696.600.000 VNĐ 444.232.000 VNĐ); Số tiền phạt vi phạm Hợp đồng là 172.438.400 VNĐ.

Phán quyết Trọng tài ngày 21/02/2024 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X tại Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau:

1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn – Công ty TNHH B, buộc Bị đơn - Công ty Cổ phần T6 có trách nhiệm thanh toán cho Nguyên đơn các khoản tiền sau:

a) Phí dịch vụ còn nợ của Hợp đồng là 638.792.000 VNĐ;

b) Khoản tiền lãi chậm trả là 36.227.381 VNĐ;

.……………….

Không đồng ý với Phán quyết của Trọng tài, ngày 18/3/2024 Công ty, T6 gửi đơn yêu cầu đến Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khởi kiện yêu cầu xem xét huỷ Phán quyết Trọng tài ngày 21/02/2024 của Trung tâm trọng tài X với lý do như sau:

- Hội đồng Trọng tài vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại.

Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội."

Do không thống nhất về tỷ lệ hoàn thành của sản phẩm nên các bên đang thương lượng để nghiệm thu sản phẩm. Quá trình này cần đi đến một thỏa thuận được sự đồng ý của hai bên mới hợp pháp trong việc xác định giá trị nghiệm thu. Mặc dù vậy Hội đồng Trọng tài chỉ dựa vào văn bản của Công ty B để xác định giá trị nghiệm thu khi chưa có biên bản thống nhất giữa hai bên về thỏa thuận khối lượng công việc và thời gian thực hiện công việc đợt 2 được hai bên đồng ý, thỏa thuận nghiệm thu là không tôn trọng thỏa thuận của các bên trong Hợp đồng.

Ngày 21/06/2023 Công ty B phát hành văn bản số 210623/TB/BCM- TLM, đến ngày 23/06/2023 Công ty T6 nhận được văn bản này. Như vậy, Công ty T6 đã phản hồi trong thời hạn 7 ngày. Mặc dù công ty T6 đã phản hồi đúng thời hạn và đầy đủ nội dung nhưng Hội đồng Trọng tài nhận định “Bị đơn đã nhận được Biên bản nghiệm thu từ Nguyên đơn, nhưng Bị đơn không phản hồi đúng thời hạn quy định tại Điều 5.5 Hợp đồng". Từ nhận định này Hội đồng Trọng tài đã chốt lại ngày Công ty T6 vi phạm Hợp đồng và tính lãi chậm thanh toán từ 01/07/2023. Đây là sai lầm nghiêm trọng trong tố tụng trọng tài, sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng làm cho kết quả giải quyết vụ án sai lệch với bản chất của tranh chấp.

Vấn đề lớn nhất của Hợp đồng này chính là các bên không có tiêu chí để đánh giá tỷ lệ sản phẩm hoàn thành. Các bên không thống nhất được với nhau về tỷ lệ hoàn thành của từng hạng mục thì phải dùng đơn vị chuyên môn độc lập để giám định mới có căn cứ để xác định tỷ lệ hoàn thành của sản phẩm, thông qua đó xác định giá trị phải thanh toán của Hợp đồng. Ngoài ra, sản phẩm của Hợp đồng là sản phẩm trí tuệ, phải đảm bảo được việc đăng ký bản quyền, đơn vị là gói, sản phẩm cần phải được hoàn thiện đầy đủ thì Công ty T6 mới có thể sử dụng được trên thực tế. Đúng ra, để có cơ sở đầy đủ và khách quan giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài cần phải cho thực hiện thủ tục giám định để xá xác định tỷ lệ hoàn thành của sản phẩm và xác định giá trị của các sản phẩm trên thực tế thực hiện mới ra được kết quả cụ thể để phán quyết.

Do đó, Công ty T6 cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm quy định Điều 46 Luật Trong tài thương mại về thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp

Phán quyết trọng tài áp dụng pháp luật không đúng trong việc tính lãi chậm thanh toán số tiền 36.227.381 đồng tính từ ngày 01/07/2023.

Hội đồng trọng tài áp dụng Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 để xác định nghĩa vụ trả lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ và áp dụng lãi suất chậm trả với mức lãi suất 10%. Đúng ra phải tính lãi theo Điều 306 Luật thương mại.

Hội đồng trọng tài đã vi phạm điểm đ khoản 1 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại do đó Công ty T6 đề nghị hủy Phán quyết số 159/23 HCM ngày 21/02/2024 theo điểm d Khoản 1 Điều 68 Luật trọng tài thương mại: "d) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam".

Tại phiên họp, người yêu cầu vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình.

.…………

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc, ý kiến của những người được Tòa án triệu tập đến phiên họp và quan điểm của Trung tâm trọng tài X; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét đơn nhận định: 

1. Về tố tụng:  ………..

2. Về nội dung:

Xét yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Công ty T6 Hội đồng xét đơn thấy: 

2.1.  Đối với ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010, theo đó Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các hên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội:

Theo Công ty T6, căn cứ theo điểm b Điều 4 Hợp đồng, nghĩa vụ thanh toán của Công ty T6 chỉ phát sinh khi Công ty B cung cấp đầy đủ các chứng từ sau: Đề nghị thanh toán, Hóa đơn giá trị gia tăng hợp lệ: Biên bản xác nhận hoàn thành khối lượng công việc tương ứng của Đợt 1: Hồ sơ bàn giao sản phẩm đợt 1; Thỏa thuận khối lượng công việc đợt 2 được 02 bên đồng ý. Công ty T6 cho rằng từ khi ký Hợp đồng cho đến khi tranh chấp Công ty T6 không đồng ý ký bất kỳ biên bản nghiệm thu hay biên bản xác nhận hoàn thành khối lượng công việc nào với Công ty B và Công ty B cũng không thể cung cấp biên bản nghiệm thu theo thỏa thuận và Công ty B cũng chưa hoàn thánh khối lượng công việc theo Hợp đồng. Như vậy, Hội đồng trọng tài chỉ dựa trên các lập luận đơn phương của Công ty B để ban hành Phán quyết mà không tôn trọng, xem xét đến thỏa thuận của hai bên theo Hợp đồng.

Đối với lý do này, tại khoản 49 của Phán quyết,  Hội đồng Trọng tài nhận định: Công ty B đã gửi các chứng từ thanh toán cho TLM như quy định tại Điều 4 của Hợp đồng, Công ty T6 đã nhận được biên bản nghiệm thu từ Công ty B nhưng Công ty T6 không phản hồi đúng thời hạn quy định tại Điều 5.5 của Hợp đồng. Do vậy, theo quy định của Hợp đồng, Công ty T6 được coi là đồng ý với Biên bản nghiệm thu. Do đó, việc Công ty Tó từ chối nghiệm thu và từ chối thanh toán là không phù hợp với quy định hợp đồng.

Hội đồng xét đơn nhận thấy yêu cầu này thuộc về việc xem xét, đánh giá chứng cứ của Hội đồng Trọng tài và thuộc về nội dung tranh chấp theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại nên không xem xét.

………………

2.3. Đối với ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài không yêu cầu thu thập chứng cứ quan trọng, cần thiết, có sai lầm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến bỏ sót chứng cứ quan trọng làm cho kết quả giải quyết vụ án sai lệch với bản chất của tranh chấp:

Công ty T6 cho rằng Hội đồng Trọng tài đã không xem xét đến chứng cứ rất quan trong là Văn bản số 07/2022/CV-TLM ngày 23/12/2022 của Công ty T6. Theo Công ty T6 đây là chứng cứ quan trọng nhăm chứng minh tỉnh đên thời điểm phát sinh tranh chấp, Công ty T6 hoàn toàn không phát sinh nghĩa vụ thanh toán cho Công ty B.

Tại Phán quyết Trọng tài, Hội đồng Trọng tài nhận định: “Công ty B đã cung cấp đủ các chứng từ thanh toán cho Công ty T6 như quy định tại Điều 4 Hợp đồng, Công ty T6 đã nhận được Biên bản nghiệm thu từ Công ty B nhưng đã không phản hồi đùng thời hạn quy định theo Điều 5.5 Hợp đồng, do đó Công ty T6 được coi là đồng ý với Biên bản nghiệm thu. Do đó, việc Công ty T6 từ chối nghiệm thu và thanh toàn là không phù hợp với quy định của Hợp đồng". Đồng thời, tại Phán quyết Trọng tài nhận định: "Qua trao đổi thư điện tử Công ty T6 cũng thừa nhận Công ty B hoàn thành hạn mục công việc". Như vậy, đối với lý do này Hội đồng Trọng tài đã phân tích và nhận định đầy đủ các tài liệu chứng cứ mà các bên đã cung cấp nên đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Công ty T6 cho rằng Hội đồng trọng tài cần phải cho thực hiện thủ tục giám định để xác định tỷ lệ hoàn thành của sản phẩm và xác định giá trị của các sản phẩm trên thực tế thực hiện mới ra được kết quả cụ thể để phán quyết.

Căn cứ khoản 1 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại thì các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Hội đồng Trọng tài, do đó bằng các tài liệu chứng cứ các bên cung cấp Hội đồng Trọng tài xem xét giải quyết, trong trường hợp Công ty T6 thấy cần thiết phải thu thập chứng cứ từ đơn vị giám định để xác định tỷ lệ hoàn thành thì Công ty T6 phải yêu cầu Hội đồng Trọng tài trưng cầu giảm định (không bắt buộc Hội đồng Trọng tài phải trưng cầu giám định). Do đó, việc Công ty T6 cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc xem xét, đánh giá chứng cứ theo Điều 46 Luật Trọng tài thương mại là không có cơ sở để chấp nhận.

2.4. Đối với ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài áp dụng Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 để xác định nghĩa vụ trả lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ và áp dụng lãi suất chậm trả với mức lãi suất 10% là áp dụng pháp luật không đúng mà phải tỉnh lãi theo Điều 306 Luật thương mại:

Hội đồng xét đơn nhận thấy do các bên thực hiện hợp đồng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh thương mại nên phải áp dụng Điều 306 Luật thương mại để tỉnh tiền lãi do chậm thanh toán như luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty T6 trình bày, Hội đồng Trọng tài áp dụng Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là chưa chính xác. Tuy nhiên, căn cứ vào mức lãi suất trung, dài hạn của Ngân hàng TMCP C cung cấp ngày 25/7/2023 là 12,50%/năm, lãi suất nợ quá hạn - 150% lãi suất vay trong hạn là 18,75%/năm; Ngân hàng TMCP N1 cung cấp ngày 20/7/2023 là 10,50%/năm, lãi suất nợ quá hạn - 150% lãi suất vay trong hạn là 15,75%/năm; Ngân hàng N2 cung cấp ngày 31/7/2023 là 10%/năm, lãi suất nợ quá hạn 150% lãi suất vay trong hạn là 15%/năm. Vậy lãi suất quá hạn trung bình của 03 ngân hàng trên là 16,5%/năm. Hội đồng trọng tài tính lài chậm trả 10%/năm là thấp hơn lãi suất quá hạn trung bình của 03 ngân hàng là có lợi cho Công ty T6 do đó Hội đồng xét đơn không xem xét lại việc áp dụng pháp luật theo quy định Điều 306 Luật Thương mại.

………

Vì các lẽ trên!

  • Căn cứ Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;
  • Căn cứ khoản 2 Điều 31, Khoản 3 Điều 414 và Điều 415 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
  • Căn cứ Điều 68, khoản 1 Điều 69, Điều 71 và Điều 72 Luật Trọng tài Thương mại 2010; 

…………..

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty T6 về việc hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp ngày 21/02/2024 tại Thành phố Hồ Chí Minh bởi Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X

  1. …………

Bài viết trên MCAC đã nêu rõ các nội dung liên quan đến Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 131/2024/QĐ-PQTT ngày 27/6/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.

Xem thêm: Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 223/2024/ QĐ-PQTT ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tin liên quan

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 2616/2023/QĐ-PQTT NGÀY 21/12/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
22 04/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 2616/2023/QĐ-PQTT NGÀY 21/12/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Quyết định số 2616/2023/QĐ-PQTT của TAND TP.HCM ngày 21/12/2023 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh liên quan đến việc xem xét yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài. Bài viết sau làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài theo quy định pháp luật hiện hành.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 223/2024/QĐ-PQTT NGÀY 29/8/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
24 03/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 223/2024/QĐ-PQTT NGÀY 29/8/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Quyết định số 223/2024/QĐ-PQTT ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân TP.HCM về việc không hủy Phán quyết Trọng tài trong vụ tranh chấp hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất giữa Công ty Cổ phần Đ và Công ty TNHH MTV V1. Quyết định làm rõ các vấn đề tố tụng và đưa ra lập luận bác bỏ yêu cầu hủy phán quyết của Tòa án.

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG