Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 223/2024/QĐ-PQTT NGÀY 29/8/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

24/03/2025

1. Nội dung vụ việc có liên quan 

Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã giải quyết tranh chấp về Hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất số 64/HĐCTL – QSDĐ (gọi tắt là “Hợp đồng số 64”) về việc cho thuê lại quyền sử dụng đất giữa Nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đ (Sau đây gọi tắt là “Công ty Đ”) và Bị đơn là Công ty TNHH MTV V1 (gọi tắt là “Công ty V1”).

Sau đó, Bị đơn là Công ty V1 khiếu nại đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp vì lý do Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã có một số vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp.

Bị đơn có ý kiến trình bày cụ thể như sau: Thứ nhất, Bị đơn cho rằng Trung tâm vi phạm trong việc thụ lý đơn khởi kiện chưa phù hợp về hình thức. Bị đơn cho rằng tại Đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2023, Nguyên đơn không chọn Trọng tài viên, cũng không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm trọng tài X chỉ định Trọng tài viên là chưa phù hợp về hình thức của Đơn khởi kiện, điều này vi phạm khoản 2 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại.

Thứ hai, Bị đơn cho rằng việc bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài của hai Trọng tài viên là không đúng quy định pháp luật. Bị đơn chỉ ra rằng, Hai trọng tài viên phải bầu Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài trước ngày 31/8/2023, nhưng thực tế đến ngày 19/9/2023 mới thực hiện, trong khi Nguyên đơn và Bị đơn không thỏa thuận gia hạn thời gian này, nên việc bầu chọn này là trái quy định pháp luật.

Thứ ba, Bị đơn cho rằng Trung tâm trọng tài X vi phạm thời hạn thông báo thụ lý vụ kiện. Bị đơn trình bày rằng Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện ngày 19/6/2023, nhưng Trung tâm trọng tài X đến ngày 18/7/2023 mới thông báo cho Bị đơn, việc này vi phạm Điều 8 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X. Ngoài ra, Bị đơn cho rằng Trung tâm trọng tài X đã vi phạm thời hạn thông báo kiện lại với lý do: Bị đơn nộp đơn kiện lại ngày 16/8/2023, nhưng đến ngày 05/10/2023 Trung tâm Trọng tài X mới thông báo cho Nguyên đơn, việc này vi phạm Điều 10 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X.

 

Hội đồng xét đơn nhận thấy: Một là, ý kiến của Bị đơn cho rằng Trung tâm trọng tài X đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thụ lý đơn khởi kiện là không có cơ sở. Trong Đơn khởi kiện ngày 15/6/2023, Nguyên đơn nêu rõ sẽ thông báo tên Trọng tài viên sau khi Trung tâm trọng tài X thụ lý Vụ tranh chấp. Đồng thời, tại Phán quyết Trọng tài thể hiện việc Nguyên đơn đã chọn ông Châu Huy Q làm Trọng tài viên. Việc lựa chọn này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 7 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X và khoản 2 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại.

Hai là, Hội đồng xét đơn nhận thấy việc thành lập Hội đồng Trọng tài là phù hợp với quy định pháp luật. Căn cứ theo khoản 4 Điều 42 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu Hội đồng trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi Trọng tài viên do Chủ tịch Trung tâm trọng tài quyết định”. Tại khoản 2 Điều 17 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC) cũng quy định như sau: “Nếu Hội đồng Trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi Trọng tài viên do Chủ tịch Trung tâm quyết định .... Quyết định của các thành viên còn lại của Hội đồng Trọng tài hoặc của Chủ tịch Trung tâm về việc thay đổi Trọng tài viên có thể không nêu căn cứ ra quyết định. Quyết định này là cuối cùng”[2].

Căn cứ nội dung Phán quyết trọng tài và lời trình bày của các Bên, ngày 16/8/2023 Bị đơn có đơn yêu cầu thay đổi Trọng tài viên do Nguyên đơn chọn và thời điểm này Hội đồng Trọng tài chưa được thành lập. Ngày 12/9/2023, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài X ban hành quyết định về việc không thay đổi Trọng tài viên. Ngày 19/9/2023, hai Trọng tài viên do các Bên chọn đã bầu Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài tham gia giải quyết Vụ tranh chấp. Theo đó, việc bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài và thành lập Hội đồng Trọng tài là phù hợp với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X và quy định tại các Điều 40 và 42 Luật Trọng tài thương mại. Với những quy định pháp luật nêu trên và căn cứ vào nội dung Phán quyết Trọng tài, Hội đồng xét thấy việc bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài là phù hợp với quy định pháp luật.

Ba là, việc Bị đơn cho rằng Trung tâm trọng tài X vi phạm thời hạn thông báo cho Bị đơn về việc khởi kiện của Nguyên đơn và vi phạm về thời hạn thông báo cho Nguyên đơn về đơn kiện lại của Bị đơn, Hội đồng xét đơn nhận thấy Trung tâm Trọng tài X đã thực hiện việc gửi thông báo, đơn khởi kiện và đơn kiện lại theo đúng quy định. Theo diễn biến thực tế Vụ tranh chấp, ngày 19/6/2023 Trung tâm Trọng tài X nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo của nguyên đơn. Ngày 04/7/2023, Nguyên đơn đã nộp phí trọng tài. Ngày 18/7/2023, Trung tâm Trọng tài X gửi tới Bị đơn Thông báo số 1403/X-HCM kèm theo đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài, các tài liệu có liên quan. Theo đó, việc gửi thông báo và đơn khởi kiện của Trung tâm Trọng tài X là phù hợp với quy định tại Điều 8 Quy tắc tố tụng trọng tài Trung tâm Trọng tài X và Điều 32 Luật Trọng tài thương mại.

Tương tự, việc gửi thông báo và đơn kiện lại cũng tuân thủ theo khoản 4 Điều 10 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X, và phù hợp theo quy định tại Điều 32 và Điều 36 Luật Trọng tài thương mại. Căn cứ quy định tại Điều 32 Luật Trọng tài thương mại: “Nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định”.

Ngày 16/8/2023, Trung tâm Trọng tài X nhận được đơn kiện lại và các tất liệu kèm theo của bị đơn. Ngày 04/10/2023, Bị đơn nộp phí trọng tài. Ngày 05/10/2023, Trung tâm Trọng tài X gửi tới Nguyên đơn Thông báo số 2255/X-HCM kèm theo đơn kiện lại, các tài liệu có liên quan. Ngoài ra, Bị đơn không chứng minh được rằng việc này đã ảnh hưởng đến quyền tham gia tố tụng của mình như thế nào. Do đó, các vi phạm này không được coi là nghiêm trọng hoặc cần khắc phục.

Căn cứ theo quy định pháp luật và tình hình thực tế Vụ tranh chấp, Hội đồng xét đơn nhận định: Lý do hủy phán quyết trọng tài và các căn cứ mà Bị đơn đưa ra không thuộc các trường hợp hủy Phán quyết Trọng tài theo quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại. Vì vậy, yêu cầu huỷ Phán quyết Trọng tài của Bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận.

 

2. Trích dẫn nội dung Bản án, Quyết định có liên quan

TÒA ÁN NHÂN DÂN                       CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH                            Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                      

Số: 223/2024/QĐ-PQTT                 Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 8 năm 2024

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC KHÔNG HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa: Ông Đào Quốc Thịnh

Các Thẩm phán:  Bà Ông Ngô Thanh Nhàn  

                             Bà Lê Thị Quỳnh Anh

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp: Bà Trương Thị Hồng Hoa - Kiểm sát viên.   

Thư ký ghi biên bản phiên họp: Ông Nguyễn Hiệp Định - Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là TP.HCM)    

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài nộp ngày 26/01/2024 của Công ty TNHH MTV V1 (sau đây gọi là Công ty V1) là Bị đơn trong Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp ngày 11/01/2024 của Trung tâm trọng tài X tại TP.HCM với nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đ (sau đây gọi tắt là Công ty Đ).

Các bên tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gồm:

  • Bên yêu cầu: Công ty TNHH MTV V1 (sau đây gọi là Công ty V1)
  • Bên liên quan: Công ty Cổ phần Đ (Sau đây gọi tắt là Công ty Đ) 

Căn cứ vào các đơn yêu cầu, văn bản của các bên nộp cho Tòa án và trình bày tại phiên họp hôm nay.

NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP 

Qua hồ sơ, tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các bên cung cấp liên quan đến vụ việc, nội dung vụ tranh chấp được tóm tắt như sau:

Ngày 10/12/2007, Công ty Đ và công ty V1 ký hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất số 64/HĐCTL - QSDĐ(sau đây gọi tắt là hợp đồng số 64) về việc cho thuê lại quyền sử dụng đất của lô đất số B đường số 1, Khu công nghiệp T, xã Đ, tỉnh Long An..

Công ty Đ yêu cầu Hội đồng Trọng tài buộc Công ty V1 phải thanh toán phí duy tu cơ sở hạ tầng là 818.039.145 đồng và khoản tiền lãi chậm trả là 206.774.706 đồng;

Bị đơn khởi kiện lại, yêu cầu Hội đồng trọng tài buộc nguyên đơn ngay lập tức nộp tiền thuê đất một lần cho Nhà nước theo khoản 2 Điều 210 Luật Đất đai năm 2013 đối với lô đất cho thuê lại, buộc nguyên đơn phối hợp với bị đơn làm việc với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với lô đất cho thuê lại cho bị đơn theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Phần IV Phán quyết Trọng tài đã quyết định như sau:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn - Công ty Đ, buộc Bị đơn - Công ty V1 phải thanh toán các khoản tiền sau:

a) Tiền lãi chậm trả là 146.384.523 đồng;

b) Phí trọng tài là 83.060.622 đồng.

2. Không chấp nhận các yêu cầu kiện lại của Bị đơn - Công ty V1 trong đơn kiện lại.

.……………….

Không đồng ý với Phán quyết Trọng tài nêu trên, Công ty V1 có đơn yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài đề ngày 26/01/2024 gửi Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh với các lý do, căn cứ như sau:

Trung tâm Trọng tài X đã có một số vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp, cụ thể:

 + Vi phạm trong việc thụ lý đơn khởi kiện chưa phù hợp về hình thức: Đơn khởi kiện ngày để ngày 15/6/2023 của Công ty Đ đã không chọn Trọng tài viên, cũng không yêu cầu Trung tâm Trọng tài X chỉ định Trọng tài viên là vi phạm hình thức đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X và khoản 2 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại.

+ Vi phạm trong việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài: Căn cứ khoản 3 Điều 40 Luật Trọng tài thương mại và khoản 3 Điều 12 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bị đơn lựa chọn trọng tài viên vào ngày 16/8/2023 thì hai trọng tài viên phải bầu trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Theo đó, ngày cuối mà hai trọng tài viên phải bầu ra người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài là ngày 31/8/2023 nhưng đến ngày 19/9/2023 việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài mới được thực hiện. Việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thành lập Hội đồng trọng tài này là trái quy định pháp luật vì: Nguyên đơn và Bị đơn không có thỏa thuận cho phép kéo dài hay gia hạn thời gian bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài, thành lập Hội đồng trọng tài; Trường hợp này, theo quy định Chủ tịch Trung tâm trọng tài là người có thẩm quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài; Mặc dù ngày 16/8/2023 Bị đơn có yêu cầu thay đổi trọng tài viên nhưng Trung tâm Trọng tài X không có bất cứ quyết định nào đình chỉ quyền và nghĩa vụ của các trọng tài viên, do đó trong thời hạn này các trọng tài viên vẫn phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

+ Vi phạm thời hạn thông báo cho Bị đơn về việc khởi kiện của Nguyên đơn: Ngày 19/6/2023 V nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo của Nguyên đơn nhưng đến ngày 18/7/2023 Trung tâm trọng tài X mới gửi Thông báo số 1403/X-HCM kèm theo đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài và các tài liệu liên quan đến Bị đơn là đã chậm trễ, vi phạm Điều 8. Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X.

+ Vi phạm về thời hạn thông báo cho Nguyên đơn về đơn kiện lại của Bị đơn: Ngày 16/8/2023 V nhận được đơn kiện lại và các tài liệu kèm theo của Bị đơn nhưng đến ngày 05/10/2023 Trung tâm Trọng tài X mới gửi Thông báo số 2255/X-HCM kèm theo đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan đến Nguyên đơn là đã chậm trễ, vi phạm Điều 10 Quy tắc tố tụng trọng tài Trung tâm Trọng tài X.

 Thứ hai, Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng Trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo: Hội đồng Trọng tài đã sử dụng tài liệu là “Biên bản xác nhận công nợ" đề ngày 15/5/2023 do bà Nguyễn Thị P để làm căn cứ tính lãi và ban hành Phán quyết Trọng tài, trong khi bà P chỉ là nhân viên Công ty V1, hoàn toàn không có thẩm quyền thay mặt người đại diện theo pháp luật của Công ty V1 xác nhận công nợ với Công ty Đ. Theo đó, Hội đồng Trọng tài đã sử dụng chứng cứ không phù hợp để làm căn cứ ban hành Phán quyết Trọng tài.

…………….

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc, ý kiến của những người được Tòa án triệu tập đến phiên họp và quan điểm của Trung tâm trọng tài X; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét đơn nhận định: 

1. Về tố tụng:  ………..

2. Về nội dung:

Xét yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Công ty A Hội đồng xét đơn thấy: 

2.1. Về việc Công ty V1 cho rằng Trung tâm Trọng tài X đã có một số vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp:

2.1.1. Về vi phạm trong việc thụ lý đơn khởi kiện chưa phù hợp về hình thức:

Xét, tại mục 5 của Đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2023 về chọn trọng tài viên, Công ty Đ trình bày: Nguyên đơn sẽ thông báo họ tên Trọng tài viên do Nguyên đơn chọn khi vụ tranh chấp này được Trung tâm Trọng tài X thụ lý; Tại mục 1 Phán quyết Trọng tài thể hiện Nguyên đơn Công ty Đ chọn ông Châu Huy Q, Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài X làm Trọng tài viên. Theo đó, việc chọn Trọng tài viên của Nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 7 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X và khoản 2 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại.

2.1.2. Về vi phạm trong việc bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài:

Tại Điều 17 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X quy định về việc có bên tranh chấp yêu cầu thay đổi Trọng tài viên khi Hội đồng trọng tài chưa được thành lập như sau: Nếu Hội đồng trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi Trọng tài viên do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài X quyết định. Quyết định của Chủ tịch Trung tâm Trọng tài X về việc thay đổi Trọng tài viên có thể không nêu căn cứ ra quyết định. Quyết định này là cuối cùng. Trường hợp Chủ tịch Trung tâm Trọng tài X quyết định không thay đổi Trọng tài viên thì Trọng tài viên này phải tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp.

Quy định nêu trên cũng phù hợp với quy định tại Điều 42 Luật Trọng tài thương mại. Theo đó, trong trường hợp có bên tranh chấp yêu cầu thay đổi Trọng tài viên khi Hội đồng trọng tài chưa được thành lập thì việc thay đổi Trọng tài viên do Chủ tịch Trung tâm trọng tài quyết định. Trường hợp Chủ tịch Trung tâm trọng tài quyết định không thay đổi Trọng tài viên thì Trọng tài viên này phải tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp. Nghĩa là, Trọng tài viên bị yêu cầu thay đổi phải chờ quyết định của Chủ tịch Trung tâm trọng tài giải quyết việc thay đổi Trọng tài viên mới được tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp.

Xét, căn cứ nội dung Phán quyết Trọng tài, phù hợp với lời trình bày của Công ty V1, có cơ sở xác định: Ngày 16/8/2023 Công ty V1 có đơn yêu cầu thay đổi Trọng tài viên do Công ty Đ chọn; Thời điểm này Hội đồng trọng tài chưa được thành lập; Ngày 12/9/2023 Chủ tịch Trung tâm Trọng tài X ban hành quyết định về việc không thay đổi trọng tài viên; Ngày 19/9/2023 hai Trọng tài viên được các bên chọn bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài để thành lập Hội đồng Trọng tài gồm ba Trọng tài viên. Theo đó, việc bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài và thành lập Hội đồng Trọng tài là phù hợp với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X và quy định tại các Điều 40 và 42 Luật Trọng tài thương mại.

Vì vậy, Công ty V1 cho rằng Trung tâm Trọng tài X vi phạm trong việc bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài, là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật, nên không được chấp nhận.

 

2.1.3. Về vi phạm thời hạn thông báo cho Bị đơn về việc khởi kiện của Nguyên đơn và vi phạm về thời hạn thông báo cho Nguyên đơn về đơn kiện lại của Bị đơn:

Tại Điều 8 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X, phù hợp với Điều 32 Luật Trọng tài thương mại quy định như sau: Trừ khi các bên có thỏa thuận khác về thời hạn, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày  Trung tâm Trọng tài X nhận được Đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài, các tài liệu khác có liên quan và phí trọng tài theo quy định tại Điều 35 của Quy tắc này, Trung tâm Trọng tài X gửi tới Bị đơn Thông báo, Đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài và các tài liệu khác có liên quan.

Tại khoản 4 Điều 10 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài X, phù hợp với các Điều 32 và 36 Luật Trọng tài thương mại quy định như sau: Trừ khi các bên có thỏa thuận khác về thời hạn, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được Đơn kiện lại, các tài liệu có liên quan và phí trọng tài được quy định tại Điều 35 của Quy tắc này, Trung tâm Trọng tài X gửi tới Nguyên đơn Thông báo, Đơn kiện lại và các tài liệu có liên quan.

Xét, căn cứ nội dung Phán quyết Trọng tài, lời trình bày và tài liệu chứng minh của Công ty Đ, có cơ sở xác định: Ngày 19/6/2023 Trung tâm Trọng tài X nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo của Nguyên đơn; Ngày 04/7/2023 Nguyên đơn nộp phí trọng tài; Ngày 11/7/2023 Trung tâm Trọng tài X có Văn bản số 1333/X-HCM đề nghị nguyên đơn cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng để Trung tâm Trọng tài X hoàn trả một phần số tiền phí trọng tài do được giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội; Ngày 18/7/2023 Trung tâm Trọng tài X gửi tới bị đơn Thông báo số 1403/X-HCM kèm theo đơn khởi kiện, thỏa thuận trọng tài, các tài liệu có liên quan. Theo đó, việc gửi thông báo và đơn khởi kiện của Trung tâm Trọng tài X là phù hợp với quy định tại Điều 8 Quy tắc tố tụng trọng tài Trung tâm Trọng tài X và Điều 32 Luật Trọng tài thương mại.

Xét, căn cứ nội dung Phán quyết Trọng tài, phù hợp với lời trình bày của Công ty V1 và Công ty Đ, có cơ sở xác định: Ngày 16/8/2023 Trung tâm Trọng tài X nhận được đơn kiện lại và các tất liệu kèm theo của Bị đơn; Ngày 04/10/2023 Bị đơn nộp phí trọng tài; Ngày 05/10/2023 Trung tâm Trọng tài X gửi tới Nguyên đơn Thông báo số 2255/X-HCM kèm theo đơn kiện lại, các tài liệu có liên quan. Theo đó, việc gửi thông báo và đơn kiện lại của Trung tâm Trọng tài X là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 10 Quy tắc tố tụng trọng tài Trung tâm Trọng tài X, các Điều 32 và 36 Luật Trọng tài thương mại.

Ngoài ra, Công ty V1 không chứng minh được việc vi phạm thời hạn thông báo cho Bị đơn về việc khởi kiện của Nguyên đơn hay việc vi phạm về thời hạn thông báo cho Nguyên đơn về đơn kiện lại của Bị đơn của Trung tâm Trọng tài X (nếu có) dẫn tới việc không đảm bảo được quyền hay làm mất quyền tham gia tố tụng của Công ty V1 nên các vi phạm này không phải là vi phạm nghiêm trọng hay cần phải khắc phục.

………………….

Vì các lẽ trên!

  • Căn cứ khoản 2 Điều 31, Điểm c Khoản 2 Điều 35, Điểm b Khoản 1 Điều 37, Điểm o Khoản 2 Điều 39, Khoản 3 Điều 414 và Điều 415 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
  • Căn cứ Điểm g Khoản 2 Điều 7, khoản 2 Điều 68, khoản 1 Điều 69, Điều 71 và Điều 72 Luật Trọng tài Thương mại 2010; 

…………..

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty V1 về việc hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp ngày 11/01/2024 tại Thành phố Hồ Chí Minh bởi Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X

2. …………

Bài viết trên MCAC đã nêu rõ các nội dung liên quan đến Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 223/2024/QĐ-PQTT ngày 29/8/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.

Xem thêm: Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 190/2024/QĐ-PQTT ngày 19/8/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Tin liên quan

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 190/2024/QĐ-PQTT NGÀY 19/8/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
13 03/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 190/2024/QĐ-PQTT NGÀY 19/8/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Quyết định số 190/2024/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân TP.HCM về việc không hủy Phán quyết Trọng tài trong tranh chấp hợp đồng thương mại giữa Công ty Q và Công ty M1. Nội dung phân tích các căn cứ pháp lý liên quan đến thủ tục tố tụng trọng tài và thời hạn yêu cầu hủy phán quyết.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1212/2023/QĐ-PQTT NGÀY 19/7/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
21 02/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1212/2023/QĐ-PQTT NGÀY 19/7/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Phân tích quyết định số 1212/2023/QĐ-PQTT của Tòa án Nhân dân TP.HCM về việc không hủy Phán quyết Trọng tài trong tranh chấp hợp đồng giữa Công ty M và Công ty A. Bài viết sau sẽ làm rõ các luận điểm pháp lý và quan điểm của Hội đồng xét đơn.

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG