Điện thoại: 0935 925 068
19/09/2022
Hợp đồng dịch vụ pháp lý là sự thỏa thuận giữa bên cung ứng dịch vụ pháp lý và bên sử dụng dịch vụ, theo đó bên cung ứng dịch vụ pháp lý thực hiện công việc theo yêu cầu, còn bên sử dụng dịch vụ phải thanh toán tiền dịch vụ tương ứng với công việc mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
- Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất định và phải bàn giao cho bên thuê dịch vụ.
- Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù Bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện công việc và mang lên kết quả như đã thoả thuận.
- Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ có nhiệm vụ tiếp nhận kết quả công việc và trả tiền công cho bên cung cấp dịch vụ.
Có 3 đặc điểm chính của hợp đồng dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý mà bên cung ứng dịch vụ là Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân:
Đối với Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thì theo quy định tại Điều 49 Luật Luật sư, Luật sư chỉ cung cấp dịch vụ pháp lý cho duy nhất cơ quan, tổ chức không phải tổ chức hành nghề luật sư mà giữa cơ quan, tổ chức đó với luật sư có giao kết hợp đồng lao động.
Theo đó, các dịch vụ pháp lý mà luật sư cung cấp được thỏa thuận rõ trong hợp đồng lao động của luật sư với cơ quan, tổ chức. Và ngoài cơ quan, tổ chức mà luật sư ký kết hợp đồng lao động thì luật sư không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho bất kỳ chủ thể nào khác trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý mà bên cung ứng dịch vụ là tổ chức hành nghề luật sư
Hầu hết các hợp đồng dịch vụ pháp lý hiện nay đều do tổ chức hành nghề luật sư đứng tên ký kết với khách hàng và cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Hiện nay, tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam có hai hình thức chính là:
+ Văn phòng luật sư
+ Công ty luật.
Khác với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư được cung cấp dịch vụ pháp lý cho bất kỳ chủ thể nào trong xã hội. Tổ chức hành nghề luật sư có đội ngũ luật sư thành viên, làm việc theo hợp đồng hoặc luật sư cộng sự (hợp tác). Trên cơ sở ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, người đứng đầu tổ chức hành nghề luật sư có thể tự mình hoặc cử luật sư trong cùng tổ chức thực hiện công việc cho khách hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định 82/2020/NĐ-CP, Luật sư thuộc tổ chức hành nghề luật sư không được ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng mà không thông qua tổ chức hành nghề luật sư hoặc không có văn bản ủy quyền của tổ chức hành nghề luật sư (khoản 3 Điều 6).
Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý ngoài tố tụng.
Dịch vụ pháp lý ngoài tố tụng là dịch vụ cung cấp công việc có liên quan đến pháp luật được giải quyết không qua thủ tục tố tụng tại Tòa án. Các hợp đồng dịch vụ pháp lý ngoài tố tụng của luật sư bao gồm:
Hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật: Hợp đồng tư vấn pháp luật là hợp đồng mà theo đó, Luật sư bằng năng lực và kinh nghiệm của mình, tư vấn pháp luật cho khách hàng trong tất cả lĩnh vực pháp luật bằng cách đưa ra hướng dẫn, ý kiến và/hoặc giúp đỡ khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của khách hàng (Điều 28 Luật luật sư).
Hợp đồng đại diện ngoài tố tụng:
Đại diện ngoài tố tụng là việc Luật sư đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động (Điều 29 Luật luật sư).
Phân loại hợp đồng dịch vụ pháp lý
Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong tố tụng
Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong tố tụng là hợp đồng được xác lập dựa trên sự thỏa thuận giữa tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng về việc cử Luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư tham gia bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích cho khách hàng hoặc cho người thứ ba.
Cho nên có thể hiểu hợp đồng dịch vụ pháp lý này có thể được ký kết giữa đại diện của tổ chức hành nghề luật sư với người có nhu cầu được bảo vệ, được bào chữa hoặc người đại diện theo pháp luật của họ.
Hoạt động tham gia tố tụng là lĩnh vực pháp lý trọng tâm của luật sư trong hoạt động hành nghề. Những vụ án phải giải quyết thông qua thủ tục tố tụng tại Tòa án thường có tính chất phức tạp, rất phức tạp, đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện tại cơ quan tiến hành tố tụng và nhiều cơ quan, tổ chức khác có liên quan cho nên nội dung của các hợp đồng dịch vụ pháp lý trong tố tụng được các bên xem xét kỹ và có những điều khoản chặt chẽ.
Dựa trên căn cứ phân loại này thì hợp đồng dịch vụ pháp lý có thể được phân loại như sau:
+ Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến các quy định về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự như thực hiện thủ tục thành lập pháp nhân, thành lập tổ chức, doanh nghiệp; giải thể tổ chức, doanh nghiệp; thay mặt khách hàng nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết việc dân sự về những vấn đề liên quan đến chủ thể như tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tòa án quyết định tuyên bố một người là đã chết...;
+ Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự; Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến việc thực hiện các quy định về tài sản và các quyền đối với tài sản; Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến xác lập, thực hiện, chấm dứt từng loại hợp đồng cụ thể; Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Hợp đồng dịch vụ pháp lý liên quan đến các vấn đề về thừa kế...
MCAC mong rằng qua bài viết trên có thể giúp doanh nghiệp có cái nhìn rõ hơn về hợp đồng dịch vụ pháp lý. Nếu có vấn đề cần tư vấn hãy liên hệ với MCAC - Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài chuyên giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng hình thức trọng tài quy chế, hòa giải thương mại.
Quyết định số 10/2021/QĐ-PQTT ngày 15/10/2021 của TAND TP Hà Nội không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài giữa Công ty BV và Công ty QC, khẳng định phán quyết đã tuân thủ đúng quy định pháp luật và thỏa thuận trọng tài.
Phân tích Quyết định số 04/2019/QĐ-PQTT ngày 21/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ, với các lập luận về thẩm quyền trọng tài và nguyên tắc pháp lý cơ bản.