Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 04/2023/QĐ-PQTT NGÀY 05/4/2023 CỦA TÒA ÁN NH N D N THÀNH PHỐ HÀ NỘI

15/08/2024

1.    Nội dung vụ việc có liên quan  

Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã giải quyết tranh chấp về hợp đồng thuê mặt bằng số PVMS.0119005 và Hợp đồng thuê dịch vụ hậu cần phục vụ thi công trên bãi số PVMS.0119006 giữa Nguyên đơn là Công ty D và Bị đơn là Công ty A.
Bị đơn là Công ty A khiếu nại đối với Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đến Tòa án có thẩm quyền. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã thụ lý đơn yêu cầu và thành lập Hội đồng xét đơn để giải quyết yêu cầu của Bị đơn.
Bị đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài Vụ tranh chấp vì lý do: Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng Trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là tài liệu chưa có giá trị chứng minh. 
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội có thẩm quyền nhận định: Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do đó, yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài Vụ tranh chấp của Công ty A không có cơ sở để Hội đồng xét đơn yêu cầu chấp nhận. 
Trong đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài, Bị đơn trình bày ý kiến như sau: Thứ nhất Công ty A không sử dựng mặt bằng từ ngày 1/7/2021 nên không phải thanh toán tiền thuê kể từ thời điểm 1/7/2021; Thứ hai: Hoá đơn số 216,217 không có giá trị để chứng minh, ảnh chụp tin nhắn trên Zalo giữa bà Nguyễn Thị Mai N và bà Nguyễn Thị H không phải là chứng cứ có giá trị chứng minh để làm căn cứ giải quyết.  
Người liên quan là Công ty D trình bày ý kiến như sau: Từ tháng 8/2020 đến tháng 1/2022 hai bên có nhiều văn bản, cuộc họp để thống nhất nội dung Công ty A thanh toán cho Công ty D nhưng Công ty A không thực hiện những nội dung đã thống nhất. Do Công ty A không thực hiện trách nhiệm theo quy định của hợp đồng, việc đàm phán sau khi xảy ra tranh chấp không đạt được kết quả mặc dù những nội dung đã được hai bên nhất trí bằng văn bản cũng không được Công ty A thực hiện. Công ty D không đồng ý hủy phán quyết và cho rằng các lý do đề nghị hủy phán quyết của bên yêu cầu là không có căn cứ, nhằm kéo dài thời gian trả nợ.   
Hội đồng xét đơn nhận thấy: Trong quá trình giải quyết Hội đồng Trọng tài cũng đã thực hiện để các bên được quyền bình đẳng, được quyền gửi văn bản, trình bày các ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, thoả thuận về việc giải quyết vụ án, cung cấp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Công ty A không nêu được ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài khi giải quyết đã vi phạm quy định tại  Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản………..Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”.

Tại Phán quyết trọng tài đã quyết định Công ty A là bên phải thực hiện việc thanh toán theo Hợp đồng 05, 06. Việc các bên ký hợp đồng là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó các bên phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự theo khoản 5 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. 
Tại phiên họp, công ty A đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng – Bà Nguyễn Thị H là người giữ chức vụ Quản lý dịch vụ tại Công ty A để làm rõ tin nhắn trên Zalo. Bà H là người nắm rõ các tình tiết có liên quan đến nội dung làm việc với bà Nguyễn Thị Mai N.  Theo đó, ý kiến này của bên yêu cầu (là bị đơn trong phán quyết Trọng tài) chính là để xem xét, đánh giá tài liệu để quyết định nội dung vụ tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 47 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Theo yêu cầu của một hoặc các bên và xét thấy cần thiết, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp”. 
Tại khoản 1 Điều 20 Quy tắc Tố tụng của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC) cũng có quy định như sau: “Theo yêu cầu của một hoặc các bên và xét thấy cần thiết, Hội đồng Trọng tài có quyền triệu tập người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp”.  
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 47 Luật Trọng tài thương mại và khoản 2 Điều 20 Quy tắc của MCAC quy định: “Trường hợp người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài”.
Căn cứ theo quy định pháp lý trên, theo yêu cầu của một hoặc các bên và xét thấy cần thiết thì Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu sự hiện diện của người làm chứng trong phiên họp giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp không có lý do chính đáng để vắng mặt và việc vắng mặt này gây cản trở quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có thể đề nghị Tòa án triệu tập nhân chứng để tham gia dự phiên họp của Hội đồng Trọng tài. Vì vậy, việc Công ty A đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng là không có cơ sở để xem xét.
 Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: Hội đồng xét đơn không xem xét các nội dung này. Theo đó, việc xem xét yêu cầu của các Bên thuộc về nội dung vụ tranh chấp. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết…………….”.Dựa trên quy định pháp luật, khi giải quyết Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp, Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ về tố tụng. Vì vậy, ý kiến này của Công ty A không thuộc phạm vi giải quyết của Hội đồng xét đơn yêu cầu nên việc triệu tập người làm chứng là không cần thiết.  
 
Căn cứ theo quy định pháp luật và tình hình thực tế Vụ tranh chấp, Hội đồng xét đơn nhận định: ý kiến của Công ty A cho rằng phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nhưng không chỉ ra được vi phạm nguyên tắc cơ bản nào. Đồng thời, Hội đồng Trọng tài cũng đã thực hiện để các bên được quyền bình đẳng, trình bày các ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, thoả thuận về việc giải quyết vụ án và cung cấp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, yêu cầu huỷ Phán quyết trọng tài của Công ty A là không có cơ sở để chấp nhận.

2.     Bản án, quyết định

 Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:  
     Thẩm phán - Chủ tọa:           Bà Lê Thúy Linh. 
     Các Thẩm phán:               Bà Nguyễn Thị Thuý Hạnh 
                              Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh  
…………………………..
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ kèm theo và Bản sao Phán quyết Trọng tài số 28/22 ngày 19/10/2022 của Trung tâm trọng tài X. 
Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đề ngày 16/11/2022 của Công ty A; 
…………………
Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X giải quyết tranh chấp giữa:  
Nguyên đơn: Công ty D 
Bị đơn:  Công ty A 
NỘI DUNG YÊU CẦU VÀ CĂN CỨ YÊU CẦU HUỶ PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI: 
 Ngày 24/4/2019 Công ty D (là nguyên đơn trong Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 28/22) và Công ty A (là bị đơn trong Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 28/22) giao kết hợp đồng thuê mặt bằng số PVMS.0119005 (được sửa đổi lần 1 ngày 22/5/2019, sửa đổi lần 2 ngày 26/6/2019) (Hợp đồng 05) và Hợp đồng thuê dịch vụ hậu cần phục vụ thi công trên bãi số PVMS.0119006 (được sửa đổi lần 1 ngày 22/5/2019, sửa đổi lần 2 ngày 1/7/2019, sửa đổi lần 3 ngày 24/4/2020, sửa đổi lần 4 năm 2020, sửa đổi lần 5 ngày 1/10/2020) (Hợp đồng 06) 
Ngày 08 tháng 7 năm 2019, Nguyên đơn đã bàn giao cho Bị đơn bãi thi công theo biên bản số 01/19/A. 
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng, Bị đơn nhiều lần vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với Nguyên đơn. Do đó, ngày 27 tháng 4 năm 2022, Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn ra Trung tâm trọng tài X với các yêu cầu sau: 
…………………….
-    Bị đơn tiếp tục phải chịu tiền thuê bãi theo đơn giá trong Hợp đồng số 05 đã ký cho đến khi hoàn tất việc bàn giao cho Nguyên đơn bãi thi công nguyên trạng như khi nhận. 
Ngày 31 tháng 8 năm 2022, Nguyên đơn có Công văn số 0557/22/CTGKTM&PTKD để bổ sung tài liệu chứng cứ và làm rõ cho yêu cầu khởi kiện như sau: tổng giá trị yêu cầu Bị đơn thanh toán nêu tại Mục III.12(ii) và III.12(iii) Đơn khởi kiện (tính đến 31/8/2021) là 1.053.441.080 đồng (210.688.216 đồng /tháng x 5 tháng). Đồng thời, Nguyên đơn làm rõ yêu cầu Hội đồng Trọng tài chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn. 
Tại Phiên họp ngày 20 tháng 9 năm 2022, Nguyên đơn gửi đến Hội đồng Trọng tài văn bản “Ý kiến tự bảo vệ về vụ tranh chấp số 28/22” đề ngày 20 tháng 9 năm 2022. 
Theo đó, Nguyên đơn đưa ra yêu cầu cuối cùng và thay thế các yêu cầu khởi kiện đã đệ trình trước đó. Cụ thể:  
-    Buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền 14.329.351.772 đồng là tiền nợ gốc và lãi chậm trả đối với Hợp đồng 05 và Hợp đồng 06.  
-    Bị đơn tiếp tục phải chịu tiền thuê bãi và lãi suất phạt trả chậm theo đơn giá trong 
Hợp đồng 05 cho đến khi hoàn tất việc bàn giao cho Nguyên đơn bãi thi công nguyên trạng như khi nhận với số tiền 2.025.817.155 đồng tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2022.  
-    Bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí trọng tài và chi phí pháp lý liên quan đến tranh chấp số 28/22, gồm: Tiền phí trọng tài: 466.026.000 đồng; và Tiền tạm ứng công tác phí trọng tài viên mà Nguyên đơn đã nộp: 12.000.000 đồng.  
Theo trình bày của Bị đơn tại văn bản “Bản trình bày quan điểm bảo vệ” đề ngày 20 tháng 9 năm 2022, các tài liệu khác trong hồ sơ Vụ tranh chấp và Phiên họp: 
…………………….. 
Bị đơn cho rằng việc Nguyên đơn tính lãi chậm trả đến ngày 31 tháng 3 năm 2022 dựa trên số tiền 4.326.445.088 đồng đối với Hợp đồng 05 và 7.935.816.516 đồng đối với Hợp đồng 06 là không có căn cứ. 
Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn hoàn trả đầy đủ toàn bộ máy móc, thiết bị cho Bị đơn với giá trị là 23.677.898.799 đồng và tiền thuê máy móc, thiết bị tại nhà xưởng kể từ ngày 14 tháng 12 năm 2021 đến nay. 
Ngày 20/9/2022 Hội đồng trọng tài đã tổ chức phiên họp giải quyết vụ tranh chấp số 28/22. Căn cứ các quy định của pháp luật Việt Nam, quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X, Hội đồng trọng tài đã quyết định: 
1.    Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn, buộc Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn các khoản tiền sau:  
1.1.    Tiền nợ gốc theo Hợp đồng 05 là: 3.682.674.596 đồng (Bằng chữ: Ba tỉ sáu trăm tám mươi hai triệu sáu trăm bảy mươi tư nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng Việt Nam); 
1.2.    ………………
1.3.    …………………
1.4.    ………………….
2.    Do Nguyên đơn đã thanh toán toàn bộ phí trọng tải, Bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền phí trọng tài là 444.215.000 đồng (Bằng chữ: Bốn trăm bốn mươi bốn triệu hai trăm mười lăm nghìn đồng Việt Nam). 
3.    Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn toàn bộ khoản tiền nêu trên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết Trọng tài này. Trường hợp Bị đơn chậm thanh toán khoản tiền nêu tại Mục IV.1.1 và IV.1.3, Bị đơn phải thanh toán tiền lãi chậm trả cho Nguyên đơn theo mức lãi suất 0,0493%/ngày tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Trường hợp Bị đơn chậm thanh toán khoản tiền nêu tại Mục IV.1.2, IV.1.4 và IV.2, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn tiền lãi chậm trả với mức lãi suất là 10%/năm tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả căn cứ theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.  
Không đồng ý với phán quyết Trọng tài, ngày 18/11/2022 Công ty A nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do: Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là tài liệu chưa có giá trị chứng minh. Cụ thể: 
Thứ nhất: Hợp đồng 05 Công ty A chỉ sử dụng mặt bằng thực tế đến ngày 30/6/2021 và đã gửi công văn số 43/2021/CV-A đề nghị bàn giao toàn bộ các hạng mục tại mặt bằng thuê để PVMS sử dụng, đề nghị PVMS không tính tiền thuê mặt bằng theo hợp đồng 05 tính đến ngày 30/6/2021. 
Thứ hai: Tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, PVMS thừa nhận đã tiếp nhận bàn giao nhà xưởng, máy móc của Công ty A từ ngày 1/7/2021. Đây chính là việc tiếp nhận ý chí theo công văn số 43/2021.CV-Avà trên thực tế PVMS đã nhận toàn bộ mặt bằng, nhà xưởng, thiết bị sử dụng từ ngày 1/7/2021. Như vậy Công ty A không sử dựng mặt bằng từ ngày 1/7/2021 nên không phải thanh toán tiền thuê kể từ thời điểm 1/7/2021. 
Thứ ba: Hoá đơn số 216,217 không có giá trị để chứng minh bởi nguyên đơn căn cứ vào ảnh chụp tin nhắn trên ứng dụng Zalo giữa bà Nguyễn Thị Mai N và bà Nguyễn Thị H. Bà H và bà N không phải là người đại diện hợp pháp của 02 bên nên không phải là ý kiến chính thức thừa nhận hoặc phản đối 02 hoá đơn GTGT này. Hợp đồng 05 cũng không quy định hoá đơn GTGT qua ứng dụng Zalo. Mục 3.7 Hợp đồng quy định Hoá đơn GTGT được gửi về địa chỉ của Công ty A hoặc địa chỉ nào khác mà Công ty A chỉ định. Thực tế Công ty A không nhận được hoá đơn 216,217. Mặt khác Zalo không được các bên thoả thuận là hình thức trao đổi hợp lệ trong quá trình thực hiện hợp đồng. Vì vậy ảnh chụp tin nhắn trên Zalo giữa bà Nguyễn Thị Mai N và bà Nguyễn Thị H không phải là chứng cứ có giá trị chứng minh để làm căn cứ giải quyết.  
Bên liên quan - Công ty D trình bày: Từ tháng 8/2020 đến tháng 1/2022 hai bên có nhiều văn bản, cuộc họp để thống nhất nội dung Công ty A thanh toán cho Công ty D nhưng Công ty A không thực hiện những nội dung đã thống nhất. Do Công ty A không thực hiện trách nhiệm theo quy định của hợp đồng, việc đàm phán sau khi xảy ra tranh chấp không đạt được kết quả mặc dù những nội dung đã được hai bên nhất trí bằng văn bản cũng không được Công ty A thực hiện. Vì vậy Công ty D có đơn khởi kiện tại Trung tâm trọng tài X là đúng với quy định của pháp luật. Công ty D không đồng ý hủy phán quyết và cho rằng các lý do đề nghị hủy phán quyết của bên yêu cầu là không có căn cứ, nhằm kéo dài thời gian trả nợ.   

Tại phiên họp xét đơn yêu cầu:  
Bên yêu cầu do ông Nguyễn Trung K và ông Phạm Anh H làm đại diện theo uỷ quyền của Công ty A vẫn giữ nguyên ý kiến đề nghị Toà án xem xét hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 28/22 ngày 19/10/2022 như đã nêu trên. Ngoài ra ông K và ông H còn trình bày Hội đồng trọng tài dựa trên chứng cứ không có giá trị chứng minh để buộc Công ty A phải thanh toán theo các hoá đơn 216,217.  
Bên liên quan do ông Nguyễn Đình H và ông Kiều T làm đại diện theo uỷ quyền của Công ty D không đồng ý hủy phán quyết. 
…………………………………………
-    Xét về nội dung Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 28/22, bên yêu cầu đưa ra căn cứ huỷ phán quyết đó là Phán quyết trọng tài không phản ánh đúng kết quả phiên họp, chấp nhận chứng cứ không đúng là tài liệu qua Zalo không được Công ty đồng ý. Văn bản không được gửi theo đúng địa chỉ đã thoả thuận trong hợp đồng. Phán quyết Trọng tài vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.  
………………………………..
Đối với phương thức liên lạc gửi thông tin qua zalo giữa bà M và bà N là nhân viên của hai công ty, tại phiên tòa đại diện công ty D xác nhận: các bên có nhiều Hợp đồng, đã làm việc với nhau nhiều lần, các bên đều liên lạc qua zalo gửi hóa đơn. Đại diện công ty A không có ý kiến phản đối, phản bác. Như vậy đủ căn cứ xác định phần nhận định của Trung tâm trọng tài X tại Phán quyết trọng tài và chứng cứ mà Trọng tài căn cứ để ban hành phán quyết được thu thập đúng trình tự, có giá trị làm chứng cứ để chứng minh theo quy định pháp luật Việt Nam. 
Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét đơn không chấp nhận yêu cầu của Công ty 
A. Về lệ phí giải quyết theo quy định. 

XÉT THẤY 

Xét yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài của Công ty A:   
……………………. 
Ngày 18 tháng 4 năm 2022, Nguyên đơn gửi Bị đơn văn bản số 0192/22/CTGK- TM&PTKD để thỏa thuận lại về tổ chức trọng tài cụ thể là Trung tâm trọng tài X để giải quyết tranh chấp. Bị đơn đã nhận được văn bản này vào ngày 20 tháng 4 năm 2022. Tuy nhiên, khi đến thời hạn mà Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phản hồi về tổ chức trọng tài cụ thể (tức là ngày 26 tháng 4 năm 2022), Bị đơn không có phản hồi đối với đề nghị của Nguyên đơn về việc chọn Trung tâm trọng tài X làm tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Tại phiên họp bị đơn không có ý kiến phản đối về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp. Do đó Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X giải quyết vụ tranh chấp là đúng thẩm quyền. 
-    Về thành phần Hội đồng trọng tài đúng theo qui định tại Điều 39 của Luật Trọng tài thương mại và Điều 11, Điều 12 Quy tắc tố tụng trọng tài. 
-    Xét lý do hủy phán quyết trọng tài: 
+ Bên yêu cầu cho rằng Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Thấy rằng: Trong quá trình giải quyết Hội đồng Trọng tài cũng đã thực hiện để các bên được quyền bình đẳng, được quyền gửi văn bản, trình bày các ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, thoả thuận về việc giải quyết vụ án, cung cấp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Công ty A không nêu được ý kiến cho rằng Hội đồng Trọng tài khi giải quyết đã vi phạm quy định tại  Điều 3 Bộ Luật dân sự 2015: Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đó là:  
1.    Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. 
2.    ……………….
3.    ……………….
4.    Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. 
…………………………..
 Do đó các bên phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự theo khoản 5 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015. Vì vậy ý kiến của Công ty A cho rằng phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nhưng không chỉ ra được vi phạm nguyên tắc cơ bản nào.  
+ Về ý kiến của Công ty A cho rằng chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là tài liệu chưa có giá trị chứng minh. Đó là công văn số 43/2021. CV-A là thông báo chấm dứt hợp đồng, Hoá đơn số 216, 217 được giao dịch qua zalo giữa 02 người là bà Nvà bà H không phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, Công ty A không nhận được 02 hoá đơn này theo đúng địa chỉ được các bên đã thoả thuận trong hợp đồng nên không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.  
Tại phiên họp, công ty A đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng – Bà Nguyễn Thị H là người giữ chức vụ Quản lý dịch vụ tại Công ty A để làm rõ tin nhắn trên Zalo. Bà H là người nắm rõ các tình tiết có liên quan đến nội dung làm việc với bà Nguyễn Thị Mai N.  
Ý kiến này của bên yêu cầu (là bị đơn trong phán quyết Trọng tài) chính là để xem xét, đánh giá tài liệu để quyết định nội dung vụ tranh chấp. Theo qui định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại: Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại điều 68 của Luật Trọng tài thương mại và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Do đó ý kiến này của Công ty A không thuộc phạm vi giải quyết của Hội đồng xét đơn yêu cầu nên việc triệu tập người làm chứng là không cần thiết.   
Từ những phân tích trên thấy rằng Công ty A  yêu cầu  hủy phán quyết trọng tài số 28/22 ngày 19/10/2022 của Trung tâm trọng tài X không có căn cứ chấp nhận. 
Về lệ phí: Công ty A phải chịu lệ phí xét đơn yêu cầu. 
Từ những nhận định trên; 

QUYẾT ĐỊNH 

1.    Không chấp nhận yêu cầu Hủy phán quyết Trọng tài vụ kiện số 28/22 được lập ngày 19/10/2022 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm trọng tài X về việc giải quyết vụ tranh chấp giữa:  
Nguyên đơn: Công ty D 
Bị đơn:  Công ty A 
…………………..


Bài viết trên MCAC đã nêu ra Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 04/2023/QĐ-PQTT ngày 05/4/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.

Xem thêm: Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 54/2023/QĐ-PQTT ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh 

Tin liên quan

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1644/2022/QĐ-PQTT NGÀY 23/9/2022 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
30 08/2024

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1644/2022/QĐ-PQTT NGÀY 23/9/2022 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Khám phá những điểm nổi bật về vụ tranh chấp giữa Công ty Cổ phần T và công ty TNHH N. Bài viết dưới đây MCAC sẽ phân tích chi tiết về các yếu tố chính trong vụ tranh chấp, lý do Bị đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài và Tòa án có thẩm quyền nhận định về vụ việc trên đối với các bên có liên quan.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 54/2023/QĐ-PQTT NGÀY 10/01/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
10 08/2024

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 54/2023/QĐ-PQTT NGÀY 10/01/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Cùng MCAC phân tích chi tiết những vấn đề về trọng tài thương mại trong Quyết định số 54/2023/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa Công ty H và Công ty V. Cập nhật các điểm quan trọng về quyền lợi, nghĩa vụ pháp lý và quá trình tố tụng

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG