Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 10/2024/QĐ-PQTT NGÀY 30/01/2024 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. HỒ CHÍ MINH [1]

26/07/2024

1. Nội dung vụ việc có liên quan 

Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X đã giải quyết tranh chấp về Hợp đồng thầu công trình xây dựng giữa Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xây dựng DTT “Công ty DTT” (Nguyên đơn) và Công ty TNHH Thiết kế kiến trúc DN “Công ty DN” (Bị đơn).

Bị đơn là Công ty DN khiếu nại đối với Phán quyết của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X đến Tòa án có thẩm quyền. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý đơn yêu cầu và thành lập Hội đồng xét đơn để giải quyết yêu cầu của Bị đơn.

Bị đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài Vụ tranh chấp vì cho rằng Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cụ thể là những nguyên tắc sau: “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”; Nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”; và Nguyên tắc “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ”.

Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền nhận định: Phán quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X không thuộc vào một trong các trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

Thứ nhất, đối với lý do yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vì Bị đơn cho rằng Hội đồng trọng tài vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Hội đồng xét đơn nhận thấy, trên thực tế các Bên không thực hiện đúng thỏa thuận về điều kiện thanh toán và tiến độ thanh toán như trong Hợp đồng đã xác lập. Bên cạnh đó, tại phiên họp và trong quá trình giải quyết Vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài đã tạo điều kiện để các Bên hòa giải với nhau và thống nhất được công nợ của một số Hợp đồng . Do đó, việc Bị đơn cho rằng các Bên không có cơ hội để thỏa thuận, thương lượng về thời hạn thanh toán là không đúng.

Thứ hai, theo thực tế Vụ tranh chấp, Bị đơn không cung cấp được chứng cứ nào để chứng minh phán quyết được lập có sự cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ để vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, Bị đơn cũng không đưa ra được căn cứ khác chứng minh Hội đồng trọng tài không độc lập, vô tư, khách quan. Đồng thời, tại các Biên bản Phiên họp do Trung tâm Trọng tài X cung cấp đều thể hiện Bị đơn xác nhận: “đồng ý và không có ý kiến phản đối về sự độc lập, vô tư, khách quan của Hội đồng trọng tài”.

Đối chiếu theo quy định tại khoản 4 Điều 38 Quy tắc Tố tụng của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC): “Trong trường hợp một bên phát hiện có sự vi phạm quy định của Pháp luật về Trọng tài, của Quy tắc Tố tụng này hoặc của Thỏa thuận trọng tài mà không phản đối trong thời hạn quy định của Quy tắc Tố tụng này thì mất quyền phản đối về những vi phạm đó. Đối với các trường hợp không quy định thời hạn phản đối thì việc phản đối phải được đưa ra chậm nhất trước thời điểm Hội đồng Trọng tài tuyên bố phiên họp giải quyết vụ tranh chấp là phiên họp cuối cùng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” [1]. Theo đó, Bị đơn không thể hiện sự phản đối về những vi phạm này với Hội đồng trọng tài hay Trung tâm Trọng tài trong thời hạn mà vẫn tiếp tục thực hiện quá trình tố tụng thì mất quyền phản đối những quy định đó tại Trọng tài.

Thứ ba, Bị đơn cho rằng Hội đồng trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ” khi chỉ xem xét, đánh giá, tài liệu, chứng cứ do Nguyên đơn đơn phương đưa ra mà không xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và bảng tính tương tự do Bị đơn cung cấp.

Theo đó, Hội đồng trọng tài căn cứ theo trình bày của các Bên tại các tài liệu và tại Phiên họp, Nguyên đơn đã hoàn thành công trình và yêu cầu thanh toán trong phạm vi hợp đồng đã ký; Bị đơn không đồng ý thanh toán và đơn phương đưa ra bảng tính toán lại nhưng không có chứng cứ chứng minh trong khi đã tiếp nhận và bàn giao cho Chủ đầu tư đưa vào sử dụng công trình trên thực tế trong thời gian dài. Ngoài ra, Bị đơn cũng không cung cấp được chứng cứ khác chứng minh rằng các Bên không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Ngoài những căn cứ pháp lý đã phân tích như trên, việc xem xét yêu cầu của các Bên thuộc về nội dung vụ tranh chấp. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: "Khi xét đơn yêu cầu, Hội đòng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu đi kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội udng vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết ...", đồng thời đối chiếu theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà cần kiểm tra phán quyết trọng tài có thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM hay không.............. Nếu xét thấy phán quyết trọng tài không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định không huỷ phán quyết trọng tài”.

Trên thực tế khi giải quyết Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp, Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ về tố tụng. Nếu một bên cho rằng phán quyết trọng tài vi phạm một trong các trường hợp được quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại thì phải chứng minh được sự vi phạm đó, nếu không chứng minh được rõ ràng có sự vi phạm thì Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Như vậy, việc tranh chấp giữa các bên có thỏa thuận và thống nhất được một số vấn đề liên quan đên Hợp đồng, Bị đơn thể hiện sự đồng ý và không có ý kiến phản đối về sự độc lập, vô tư, khách quan của Hội đồng Trọng tài. Bên cạnh đó, Bị đơn không có căn cứ nào chứng minh Hội đồng Trọng tài vi phạm các nguyên tắc không độc lập, vô tư, khách quan; không cung cấp được chứng cứ khác chứng minh rằng các Bên không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Do đó, yêu cầu huỷ Phán quyết trọng tài của Công ty DN là không có cơ sở để chấp nhận.

2. Bản án, quyết định trích dẫn có liên quan như sau:

Quyết định số 10/2024/QĐ-PQTT ngày 30/01/2024

của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh

(V/v: Không hủy phán quyết trọng tài)

Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:

Thẩm phán, Chủ tọa phiên họp: Bà Nguyễn Thu Chinh

Các Thẩm phán:                            Ông Ngô Thanh Nhàn

                                                         Bà Ngô Thị Phúc Hảo

Thư ký phiên họp:                          Bà Trịnh Ngọc Hân

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp: Ông Tôn Mạnh Hùng, Kiểm sát viên.    

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự thụ lý số 155/2023/TLSTKDTM ngày 04 tháng 12 năm 2023 về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo Quyết định mở phiên họp số 135/2024/QĐ-MPH ngày  05 tháng 01 năm 2024.

Người yêu cầu: Công ty TNHH Thiết kế kiến trúc DN

Là bị đơn trong phán quyết trọng tài.        

Người có liên quan: Công ty TNHH Thương mại dịch vụ DTT

Là nguyên đơn trong phán quyết trọng tài.

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ngày 11 tháng 11 năm 2023 của Công ty TNHH Thiết kế kiến trúc DN đối với phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 139/22 HCM ngày 15 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X giải quyết vụ tranh chấp số 139/22 HCM giữa Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xây dựng DTT (gọi tắt là Công ty DTT) và Công ty TNHH Thiết kế kiến trúc DN (gọi tắt là công ty DN).

Nội dung tranh chấp: Công ty  DTT (nguyên đơn) và Công ty DN (bị đơn) là đối tác của nhau từ năm 2013, theo đó Bị đơn là chủ thầu, nhận công trình từ các Chủ đầu tư rồi giao cho Nguyên đơn thi công hạng mục liên quan nội thất theo hình thức giao kết hợp đồng kinh tế thi công hoàn thiện nội thất. Nguyên đơn và Bị đơn đã ký các hợp đồng hoàn thiện nội thất các công trình với Bị đơn. Sau nhiều lần trao đổi nhưng Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ, Nguyên đơn đã nộp Đơn khởi kiện Bị đơn đến Trung tâm Trọng tài X. Trong Đơn khởi kiện, Nguyên đơn yêu cầu Trọng tài buộc Bị đơn phải thanh toán số nợ gốc của 11 hợp đồng thi công xây dựng nêu trên là 3.057.959.742 VND. Ngày 28/4/2023, Nguyên đơn nộp Đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày 27/4/2023. Theo đó, Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với Công trình xây dựng phần thô Nhà Thờ TT theo Hợp đồng kinh tế số 161012/UD_ĐTP ký ngày 17/10/2016, chỉ còn giữ yêu cầu khởi kiện đối với 10 hợp đồng là 2.415.000.000 VND .  

Nội dung phán quyết trọng tài: 

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, buộc Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN phải thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xây dựng DTT các khoản tiền sau đây ngay sau khi có Phán quyết này:

a. Tiền thi công còn nợ là: 2.415.000.000 VND (Bằng chữ: Hai tỷ, bốn trăm mười lăm triệu đồng Việt Nam);

b. Phí trọng tài: 137.924.520 VND (Bằng chữ: Một trăm ba mươi bảy triệu, chín trăm hai mươi bốn nghìn, năm trăm hai mươi đồng Việt Nam).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành Phán quyết của Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Xây dựng DTT, nếu Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN không chịu thanh toán các khoản tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành cho đến khi thi hành xong Phán quyết.

Nội dung yêu cầu và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:

Trong đơn yêu cầu Hủy phán quyết trọng tài, bị đơn- Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 96/21 HCM lập ngày 28 tháng 3 năm 2022 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X với lý do người yêu cầu cho rằng Hội đồng Trọng tài chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cụ thể Hội đồng Trọng tài đã vi phạm các nguyên tắc sau: 

  1. Nguyên tắc “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”;
  2. Nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”;
  3. Nguyên tắc “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ”

2.1. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên họp: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với các lý do nêu trong đơn yêu cầu của Công ty DN và lời trình bày tại phiên họp của người yêu cầu là không có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét đơn yêu cầu áp dụng Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty Duy Nhất;

XÉT THẤY:

1. Về thẩm quyền giải quyết:

 Đây là việc dân sự về yêu cầu kinh doanh thương mại liên quan đến việc trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp, nơi Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết trọng tài là Thành phố Hồ Chí Minh, do đó căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 31, điểm b khoản 1 Điều 37, điểm o khoản 2 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, và Khoản 2, Khoản 3 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, yêu cầu này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Về thời hiệu nộp đơn yêu cầu: 

Ngày 24/10/2023 là ngày ban hành phán quyết trọng tài vụ kiện số 139/22 HCM ngày 24 tháng 10 năm 2023 Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN đã nhận được phán quyết. Ngày 16/11/2023, Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy phán quyết trọng tài là còn trong thời hạn (30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài) theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Trọng tài Thương mại.

3. Về nội dung yêu cầu:

Xét các lý do trong đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đề ngày 18/4/2022 của Người yêu cầu là Công ty TNHH Thiết Kế Kiến Trúc DN, căn cứ các tài liệu chứng cứ đính kèm tại đơn yêu cầu và lời trình bày của các bên tại phiên họp, Hội đồng xét đơn nhận thấy:

1. Xét lý do người yêu cầu cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”:

Người yêu cầu cho rằng: Các hợp đồng mà Công Ty DN và Công Ty DTT ký đều là hợp đồng “theo đơn giá”, và “khối lượng hoàn thiện tính theo thực tế khi nghiệm thu” và “giá trị quyết toán cuối cùng dựa trên khối lượng thực tế thi công tại công trình”.

……………….

Công Ty DTT không có biên bản nghiệm thu khối lượng thực tế, không có xác nhận giá trị quyết toán của Công Ty DN nhưng Hội Đồng Trọng Tài buộc Công Ty DN phải thanh toán đầy đủ các khoản nợ của 06 hợp đồng còn lại theo yêu cầu của Công Ty DTT là không phù hợp và không đúng với điều khoản mà hai bên đã thoả thuận và ký kết tại các Hợp đồng liên quan, do đó Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”.

Xét: Trong các Hợp đồng, các Bên đã thỏa thuận về điều kiện thanh toán và tiến độ thanh toán tại Điều 6 của Hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế các Bên không thực hiện đúng thỏa thuận này. Nguyên đơn đã hoàn thành công trình và Bị đơn đã sử dụng công trình trên thực tế trong thời gian dài, tuy nhiên Bị đơn không đồng ý ký quyết toán do không đồng ý với chất lượng công trình và phát sinh tranh chấp nên yêu cầu trọng tài giải quyết. Hội đồng xét đơn nhận thấy Trong quá trình giải quyết Vụ tranh chấp, qua nhiều Phiên họp, Hội đồng Trọng tài đã tạo điều kiện để các Bên hòa giải với nhau.Với sự điều phối của Hội đồng Trọng tài, các Bên đã thống nhất được công nợ của một số Hợp đồng

…………………………………

Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp do đó việc Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các Bên là không có cơ sở. 

2. Xét lý do người yêu cầu cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định pháp luật”:

Người yêu cầu trình bày : “Hội đồng Trọng tài cho rằng Công ty DN không thực hiện quyền tạm dừng, quyền chấm dứt hợp đồng là việc đánh tráo khái niệm, thể hiện sự không khách quan, vô tư khi xem xét, đánh giá và đưa ra phán quyết”. vi phạm nguyên tắc tại Điều 4.2 Luật Trọng tài thương mại 2010 về việc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”. Nhận thấy tại phiên họp người yêu cầu không cung cấp được chứng cứ nào để chứng minh phán quyết được lập có sự cưỡng ép, lừa dối , đe dọa hoặc hối lộ để vi phạm nguyên tắc “Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật”. Tại các Biên bản Phiên họp do Trung tâm Trọng tài X cung cấp đều thể hiện Bị đơn  xác nhận: “đồng ý và không có ý kiến phản đối về sự độc lập, vô tư, khách quan của Hội đồng Trọng tài”. Ngoài ra, Bị đơn cũng không đưa ra được căn cứ khác chứng minh Hội đồng Trọng tài không độc lập, vô tư, khách quan. ………………………………………

3. Xét lý do người yêu cầu cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ”:

Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ” khi chỉ xem xét, đánh giá, tài liệu, chứng cứ do Nguyên đơn đơn phương đưa ra mà không xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ và bảng tính tương tự do Bị đơn cung cấp.

Ý kiến này của bị đơn không được nguyên đơn xác nhận. Nguyên đơn đã xuất trình các chứng cứ chứng minh Hội đồng trọng tài đã tạo điều kiện để các bên đều được xuất trình tài liệu chứng cứ nhưng bị đơn không cung cấp được chứng cứ. Hội đồng Trọng tài căn cứ theo trình bày của các Bên tại các tài liệu và tại Phiên họp, Nguyên đơn đã hoàn thành công trình và yêu cầu thanh toán trong phạm vi hợp đồng đã ký; Bị đơn không đồng ý thanh toán và đơn phương đưa ra bảng tính toán lại nhưng không có chứng cứ chứng minh trong khi đã tiếp nhận và bàn giao cho Chủ đầu tư đưa vào sử dụng công trình trên thực tế trong thời gian dài. Ngoài ra, Bị đơn cũng không cung cấp được chứng cứ khác chứng minh rằng các Bên không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Do đó, việc Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài vi phạm nguyên tắc bình đẳng giữa các Bên là không có cơ sở. Mặt khác việc xem xét, đánh giá chứng cứ là thuộc về nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã xem xét giải quyết, căn cứ qui định tại Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại, Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà hội đồng trọng tài đã giải quyết. Vì vậy,  lý do nêu trên của người yêu cầu là không có cơ sở giải quyết.

Từ những phân tích trên, nhận thấy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 139/22 HCM ngày 24 tháng 10 năm 2023  của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X không thuộc vào một trong các trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 139/22 HCM ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X của người yêu cầu là công ty Duy Nhất.

Vì các lẽ trên,

……………………..

QUYẾT ĐỊNH:

1. Không hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 139/22 HCM ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X về việc giải quyết vụ tranh chấp giữa:

Nguyên đơn:  Công ty TNHH Thương mại dịch vụ DTT

Bị đơn:  Công ty TNHH Thiết kế kiến trúc DN

………………….

Bài viết trên MCAC đã nêu ra Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 10/2024/QĐ-PQTT ngày 30/01/2024 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.

Xem thêm: Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong quyết định số 1558/2022/QĐ-PQTT ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh

Tin liên quan

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1644/2022/QĐ-PQTT NGÀY 23/9/2022 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
30 08/2024

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1644/2022/QĐ-PQTT NGÀY 23/9/2022 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Khám phá những điểm nổi bật về vụ tranh chấp giữa Công ty Cổ phần T và công ty TNHH N. Bài viết dưới đây MCAC sẽ phân tích chi tiết về các yếu tố chính trong vụ tranh chấp, lý do Bị đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài và Tòa án có thẩm quyền nhận định về vụ việc trên đối với các bên có liên quan.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 04/2023/QĐ-PQTT NGÀY 05/4/2023 CỦA TÒA ÁN NH N D N THÀNH PHỐ HÀ NỘI
15 08/2024

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 04/2023/QĐ-PQTT NGÀY 05/4/2023 CỦA TÒA ÁN NH N D N THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Khám phá những điểm nổi bật về tranh chấp hợp đồng thương mại giữa Công ty D và Công ty A liên quan đến phán quyết trọng tài. Bài viết dưới đây MCAC sẽ phân tích chi tiết Quyết định số 04/2023/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, từ nguyên nhân tranh chấp đến lý do Tòa án hủy phán quyết trọng tài, và những bài học pháp lý rút ra từ vụ việc này.

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG