Điện thoại: 0935 925 068
14/12/2023
Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và được áp dụng phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại nhưng vẫn còn nhiều bất cập, không đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi sự nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Bài viết này đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài thương mại để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật về trọng tài thương mại tại Việt Nam khá non trẻ so với pháp luật về trọng tài thương mại quốc tế. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam được ban hành ngày 17/6/2010 (Luật TTTM) và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, trong khi Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về Thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã được ban hành từ năm 1985 (được sửa đổi, bổ sung năm 2006) (Luật Mẫu). Nghĩa là Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam được ban hành muộn hơn so với Luật Mẫu hơn hai thập kỷ. Cho đến hiện nay, Việt Nam vẫn chưa được xem là quốc gia theo Luật Mẫu. Điều này tạo ra rào cản khá lớn cho sự hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam chưa có một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại phù hợp với khung pháp lý chung toàn cầu.
Bên cạnh đó, trải qua hơn mười năm tồn tại trên thực tế, mặc dù Luật Trọng tài thương mại đã đóng góp tích cực cho phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án tại Việt Nam nhưng cũng đã bộc lộ không ít bất cập. Một số bất cập phổ biến như: thẩm quyền của trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài, việc hủy phán quyết trọng tài, công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài tại Việt Nam,…
Với thực trạng đó, bài viết này nghiên cứu, chỉ ra một số bất cập, tồn tại cần khắc phục của pháp luật về trọng tài thương mại hiện hành để hướng đến việc hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Các vấn đề cần nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế chắc chắn sẽ rất đa dạng, phong phú. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ đề xuất nghiên cứu, hoàn thiện một số vấn đề cơ bản, mới mẻ trong bối cảnh của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế như trình bày dưới đây.
Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL đóng vai trò quan trọng trong việc ban hành Luật Trọng tài thương mại của các quốc gia trên thế giới. Theo thống kê và công nhận trên website của UNCITRAL, đã có 87 quốc gia căn cứ hoặc chịu ảnh hưởng của Luật Mẫu để ban hành Luật Trọng tài thương mại tại quốc gia đó.
Mặc dù các nhà làm luật và các chuyên gia tại Việt Nam vẫn cho rằng Luật TTTM Việt Nam có tham khảo Luật Mẫu, có nhiều điều khoản soạn thảo theo Luật Mẫu nhưng hiện nay Luật TTTM Việt Nam vẫn chưa được UNCITRAL coi là theo Luật Mẫu.
Đề xuất xây dựng Luật Trọng tài thương mại Việt Nam theo Luật Mẫu đã được các chuyên gia, người hành nghề thực tiễn đề xuất trong thời gian gần đây. Theo Giáo sư Đỗ Văn Đại, “khi sửa đổi pháp luật trọng tài, hướng theo Luật Mẫu là biện pháp ưu tiên để đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư” [3], “sửa đổi pháp luật theo Luật Mẫu để thu hút giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là xu hướng chung của thế giới” [4].
Năm 2020, Bộ Tư pháp cũng đã thực hiện nghiên cứu và công bố “Báo cáo đánh giá, so sánh quy định pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài với Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, đề xuất khả năng áp dụng Luật Mẫu tại Việt Nam” [5]. Báo cáo này cũng khẳng định: “Luật Mẫu là đặc biệt phù hợp với các quốc gia chưa có pháp luật trọng tài phát triển toàn diện hoặc các quốc gia đã có pháp luật trọng tài nhưng hoàn toàn phù hợp với các vụ việc quốc tế. Đây là dấu hiệu của hài hòa hóa pháp luật về trọng tài. Hơn nữa, việc nghiên cứu áp dụng Luật Mẫu sẽ góp phần thực hiện tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi ở các quốc gia với những nền tảng pháp lý khác nhau” [6].
Theo Dự thảo Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại (Dự thảo 6) của Hội Luật gia Việt Nam, Ban Biên tập cũng xác định nghiên cứu hoàn thiện Luật TTTM theo hướng “hoàn thiện về thể chế trọng tài thương mại và pháp luật liên quan đảm bảo trọng tài thực sự là thiết chế hiệu quả đấp ứng nhu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, Luật Mẫu UNCITRAL và thông lệ quốc tế về trọng tài thương mại” [7].
Như vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện Luật TTTM theo Luật Mẫu là yêu cầu cấp thiết hiện nay, được giới nghiên cứu và các cơ quan có thẩm quyền ủng hộ, kỳ vọng mang lại lợi ích to lớn cho việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Việc xây dựng Luật Trọng tài thương mại Việt Nam theo Luật Mẫu cũng có nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như có thể áp dụng toàn bộ Luật Mẫu hoặc tham khảo, tham chiếu, xây dựng các điều khoản của Luật Trọng tài thương mại phù hợp với Luật Mẫu với một dung lượng vừa đủ. Tác giả đồng tình với quan điểm Luật Trọng tài thương mại không cần sao chép toàn bộ Luật Mẫu nhưng cần chuyển hóa các nội dung cơ bản, tiến bộ, phù hợp của Luật Mẫu vào Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam, đồng thời cần tính đến việc thực hiện các thủ tục cần thiết để UNCITRAL công nhận Luật Trọng tài thương mại Việt Nam là Luật theo Luật Mẫu.
Mặc dù việc xây dựng Luật Trọng tài thương mại theo Luật Mẫu như nêu trên là xu hướng không thể khác hơn nhưng tác giả cho rằng những quy định của Luật Mẫu vẫn tồn tại những bất cập trong bối cảnh hiện nay, nhiều vấn đề Luật Mẫu cũng chưa bao quát và điều chỉnh kịp thời (chẳng hạn như Luật Mẫu cũng không có quy định về trọng tài viên khẩn cấp, thủ tục trọng tài rút gọn,…). Do đó, khi xây dựng Luật Trọng tài thương mại Việt Nam theo hướng Luật Mẫu thì vẫn cần có sự bổ sung linh hoạt, cần thiết phù hợp với bối bảnh đặc thù của Việt Nam và thông lệ quốc tế hiện nay.
Điều 2 Luật TTTM quy định Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Quy định trên mặc dù đã mở rộng các loại tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại trong những năm qua.
Đối với loại tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại (theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật TTTM) vẫn còn có ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng quy định này chỉ điều chỉnh về mặt chủ thể tranh chấp, chỉ cần một bên tranh chấp có hoạt động thương mại thì tranh chấp đó có thể được giải quyết bằng trọng tài mà không phụ thuộc vào bản chất của quan hệ tranh chấp có liên quan đến hoạt động thương mại hay không. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Quy định tại khoản 2 Điều 2 nêu trên nằm trong “Luật Trọng tài thương mại”, nên phải phù hợp với tinh thần chung của Luật này. Với quy định tại khoản 2 và vị trí của nó trong Luật Trọng tài thương mại, dường như tranh chấp được quy định tại đây phải liên quan đến hoạt động thương mại. Điều đó có nghĩa là chúng ta không chỉ quan tâm đến “chủ thể” mà vẫn phải quan tâm đến cả “bản chất” của tranh chấp. Tranh chấp ở đây không nhất thiết là phải “phát sinh từ hoạt động thương mại” như quy định trong khoản 1 Điều 2 nêu trên, nhưng nó phải liên quan đến hoạt động thương mại” [8].
Thực tiễn cho thấy đã có nhiều tranh chấp liên quan đến quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật TTTM. Chẳng hạn như tranh chấp giữa một bên là công ty (người sử dụng lao động) với người lao động liên quan đến thỏa thuận bảo mật và không cạnh tranh (còn gọi là “NDA-NCA”). Về bản chất, thỏa thuận này không phải là một hoạt động thương mại hay liên quan đến hoạt động thương mại. Về chủ thể, chỉ có một bên (người sử dụng lao động) là công ty (thương nhân) có hoạt động thương mại. Trong thỏa thuận giữa các bên, các bên có thỏa thuận trọng tài hợp pháp nên Trọng tài đã thụ lý, giải quyết tranh chấp này. Tuy vậy, có ý kiến cho rằng Trọng tài không có thẩm quyền vì tranh chấp này không mang tính thương mại, đây là quan hệ tranh chấp về lao động.
Theo Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong vụ tranh chấp giữa bà T. và Công ty X liên quan đến thỏa thuận không cạnh tranh (NDA), bà T cho rằng Trọng tài không có thẩm quyền và yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nhưng Tòa án cho rằng: “Căn cứ Khoản 2, Điều 2, Luật Trọng tài thương mại quy định: “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài: Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại”. Công ty X là thương nhân, có đăng ký kinh doanh, có hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005. Do đó, Thỏa thuận trọng tài thuộc thẩm quyền giải quyết của VIAC và trọng tài theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật Trọng tài thương mại” [9]. Theo Án lệ số 69/2023/AL, tranh chấp về thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh giữa hai bên đã được xác định là thỏa thuận độc lập với hợp đồng lao động, thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài thương mại.
Tương tự, các loại tranh chấp khác trong lĩnh vực nhà ở, đất đai, kinh doanh bất động sản, vấn đề thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam,… cũng cần được quy định rõ hơn để cụ thể hóa hơn nữa thẩm quyền của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp.
Mặc dù Điều 14 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định trường hợp quyền dân sự bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài nhưng trong chính Luật TTTM, vẫn cần có quy định rõ hơn, rộng hơn về thẩm quyền của trọng tài đối với những tranh chấp mà chỉ có một bên có hoạt động thương mại và các tranh chấp “phi thương mại”, tranh chấp dân sự khác.
Tác giả cho rằng, đối với các tranh chấp lao động cá nhân, cũng cần mở rộng cho Trọng tài (thương mại) giải quyết. Bộ luật Lao động hiện hành đã quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động bằng Trọng tài lao động nhưng cơ chế này không thật sự hiệu quả. Rất ít vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài lao động. Cơ chế thành lập và hoạt động của Trọng tài lao động vẫn phụ thuộc vào Cơ quan hành chính và thủ tục hành chính, chẳng hạn như Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Hội đồng trọng tài lao động, bổ nhiệm Chủ tịch, thư ký và các trọng tài viên lao động của Hội đồng trọng tài lao động. Cơ chế này kém linh hoạt và hiệu quả, tạo ra thêm gánh nặng cho Nhà nước. Do đó, cần mở rộng thẩm quyền của Trọng tài trong lĩnh vực này. Trước mắt, có thể trao quyền cho Trọng tài quy chế (các Trung tâm trọng tài) được gaiỉ quyết các loại tranh chấp này.
Một hướng đề xuất mở rộng thẩm quyền của Trọng tài có thể được cân nhắc là quy định theo hướng “chọn - bỏ”. Tức là Luật Trọng tài thương mại sửa đổi có thể quy định theo hướng chỉ xác định rõ những loại tranh chấp nào trọng tài không được giải quyết. Ngoài những loại tranh chấp trọng tài không được giải quyết này thì Trọng tài có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các loại tranh chấp còn lại nếu các bên tranh chấp có lựa chọn.
Việc cụ thể hóa hơn nữa thẩm quyền của Trọng tài cũng liên quan mật thiết đến tên gọi của Luật Trọng tài thương mại sửa đổi. Tác giả cho rằng tên gọi của Luật này chỉ cần dùng tên “Luật Trọng tài” là phù hợp với nội dung của Luật.
Ưu điểm của Trọng tài thường được biết đến là một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng, tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, trong thực tiễn trọng tài, đặc biệt là trọng tài quốc tế, nhiều vụ tranh chấp cũng đã bị kéo dài. “Điều các bên không hài lòng nhất về trọng tài là sự trì hoãn, đặc biệt là ở giai đoạn mở đầu và kết thúc của quá trình trọng tài” [10]. Theo Khảo sát về trọng tài quốc tế năm 2015 của trường Queen Mary - Đại học Luân Đôn, chi phí và sự thiếu nhanh chóng là hai trong những hạn chế nổi bật của trọng tài quốc tế được người khảo sát đánh giá [11]. Chính vì vậy, trong thực tiễn trọng tài quốc tế, các cơ chế đặc biệt trong tố tụng trọng tài đã được áp dụng nhằm thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được nhanh chóng hơn, trong đó có cơ chế trọng tài viên khẩn cấp và thủ tục trọng tài rút gọn.
Trọng tài viên khẩn cấp là cơ chế nhằm đảm bảo biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng kịp thời trước khi Hội đồng trọng tài được thành lập. Trong trọng tài quốc tế, cơ chế này đã được áp dụng khá phổ biến ở nhiều quốc gia theo quy tắc của các Trung tâm trọng tài, như: Quy tắc Trọng tài của Tòa Trọng tài Quốc tế - Phòng Thương mại Quốc tế (ICC, Pháp), Tòa Trọng tài Quốc tế Luân Đôn (LCIA, Anh), Trung tâm Giải quyết tranh chấp quốc tế (ICDR, Hoa Kỳ), Phòng Thương mại Stockholm (SCC, Thụy Điển), Trung tâm Trọng tài Thụy Sĩ (SAC), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (HKIAC), Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế Trung Quốc (CIETAC),…
Đặc biệt, tại Hồng Kông, pháp luật về Trọng tài thương mại đã quy định rõ về cơ chế áp dụng và thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của trọng tài viên khẩn cấp.
Mặc dù Luật Trọng tài thương mại hiện hành đã quy định trước khi Hội đồng trọng tài được thành lập, các bên tranh chấp vẫn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, cơ chế hỗ trợ của Tòa án vẫn không phải là điều dễ dàng và vẫn kém linh hoạt hơn so với cơ chế Trọng tài viên khẩn cấp, “Tòa án Việt Nam hiện nay còn chưa hỗ trợ tốt cho hoạt động trọng tài vì nhiều nguyên nhân khác nhau (quá tải công việc, chưa đánh giá được tầm quan trọng,…) [12].
Do đó, vì lợi ích của các bên tranh chấp với mong muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được kịp thời, linh hoạt, mở rộng quyền lựa chọn của các bên tranh chấp trong tố tụng trọng tài, để pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế, việc sửa đổi, bổ sung các quy định về trọng tài viên khẩn cấp vào Luật Trọng tài thương mại hiện hành là cần thiết. Tuy vậy, Luật không cần quy định quá chi tiết về trình tự, thủ tục của việc áp dụng Trọng tài viên khẩn cấp mà Luật chỉ cần ghi nhận cơ chế này và có thể trao quyền cho các Trung tâm trọng tài quy định chi tiết, đồng thời Luật cần đảm bảo cơ chế thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của trọng tài viên khẩn cấp.
Tương tự vấn đề trọng tài viên khẩn cấp, các quy định về thủ tục trọng tài rút gọn hiện nay cũng được quy định và áp dụng trong thực tiễn từ các Trung tâm trọng tài trên thế giới (đã được nêu trên). Thủ tục trọng tài rút gọn là thủ tục trọng tài có thời gian ngắn hơn và chi phí thấp hơn so với thủ tục trọng tài thông thường. Hiện nay, các quy tắc tố tụng trọng tài của các Trung tâm trọng tài tại Việt Nam đã bước đầu quy định về thủ tục trọng tài rút gọn như: các Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Phía Nam (STAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT),… Việc quy định và áp dụng thủ tục trọng tài rút gọn hiện nay là sự tiên phong, đột phá của các Trung tâm trọng tài trong nước từ việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các tổ chức trọng tài lớn trên thế giới. Luật Trọng tài thương mại hiện hành chưa thật sự quy định rõ về thủ tục trọng tài rút gọn. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi hơn, tạo hành lang pháp lý rõ nét hơn cho các Trung tâm trọng tài áp dụng cơ chế thủ tục trọng tài rút gọn, pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam cần bổ sung các quy định về thủ tục trọng tài rút gọn.
Từ sau đại dịch Covid-19, việc giải quyết tranh chấp trực tuyến (“online dispute resolution” – ODR), trong đó có trọng tài thương mại trực tuyến, đã trở thành vấn đề mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Giải quyết tranh chấp trực tuyến là yêu cầu của thực tiễn, giúp tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi, tiết kiệm chi phí hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống (trực tiếp). “Rõ ràng, chi phí giải quyết tranh chấp trực tuyến sẽ rẻ hơn rất nhiều khi so sánh với chi phí giải quyết tranh chấp ngoại tuyến. Quy trình giải quyết tranh chấp trực tuyến sẽ tiết kiệm được chi phí thuê văn phòng giải quyết tranh chấp, chi phí đi lại, ăn, ở của các bên do khoảng cách địa lý (đặc biệt trong tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì đây là chi phí đáng kể), chi phí lợi ích do đã tiết kiệm được thời gian di chuyển, thời gian giải quyết vụ việc (do có sự trợ giúp của AI nên thời gian nghiên cứu/giải quyết vụ việc cũng được rút ngắn),…” [13].
Trên thế giới, nhiều tổ chức trọng tài đã có các quy định về trọng tài trực tuyến trong Quy tắc chung hoặc ban hành các Quy tắc, quy định riêng về trọng tài trực tuyến. Chẳng hạn như: Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế quốc tế Trung Quốc (CIETAC), Tòa Trọng tài Quốc tế Thẩm Quyến (SCIA), Trung tâm Trọng tài Istanbul (ISTAC),… Nhiều tổ chức trọng tài đã thiết lập hệ thống nhận đơn khởi kiện, hồ sơ trực tuyến và sẵn sang mở các phiên họp, làm việc, giải quyết tranh chấp trực tuyến.
Tại Việt Nam, các Quy tắc tố tụng trọng tài của các Trung tâm trọng tài cũng đã có quy định về hình thức phiên họp trực tuyến. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 25 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam quy định: “Hội đồng Trọng tài có thể tiến hành phiên họp giải quyết vụ tranh chấp bằng hình thức teleconference, video-conference hoặc các hình thức thích hợp khác nếu các bên có thỏa thuận”. Ngoài ra, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hà Nội (HIAC) cũng đã có quy định về giải quyết tranh chấp trực tuyến đối với các tranh chấp thương mại điện tử giá trị nhỏ (dưới 30 triệu), các tranh chấp tiêu dùng giá trị nhỏ (dưới 30 triệu), các tranh chấp thương mại xuyên biên giới (theo sự lựa chọn hình thức của các bên) hoặc các tranh chấp kinh tế, thương mại khác tại Việt Nam (giá trị dưới 30 triệu hoặc không giới hạn giá trị nếu các bên đều có chữ ký số) [14].
Trong thời gian Covid-19, một số trung tâm trọng tài cũng đã bước đầu thử nghiệm cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến (VIAC, STAC) như tổ chức các phiên họp giải quyết tranh chấp, các buổi làm việc trực tuyến,…
Tuy vậy, việc giải quyết tranh chấp trực tuyến nói chung và trọng tài trực tuyến hiện nay vẫn chưa thật sự phổ biến. Việc áp dụng trọng tài trực tuyến sẽ phụ thuộc nhiều yếu tố như: tính chất vụ tranh chấp (mức độ phức tạp, sự tham gia của các bên,…), khung pháp lý cho cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến (các vấn đề về địa điểm trọng tài, địa điểm mở phiên họp gaiỉ quyết tranh chấp, nơi ban hành phán quyết trọng tài,…), sự sẵn sàng về công nghệ, cơ sở vật chất và cả con người (những người tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp trực tuyến). Dù vậy, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, với sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, trong đó có trọng tài trực tuyến trên thế giới, việc tính đến cơ chế trọng tài trực tuyến trong Luật Trọng tài thương mại Việt Nam là điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Việc luật hóa quy định về trọng tài trực tuyến trong Luật Trọng tài thương mại nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi hơn cho các Trung tâm trọng tài thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp bằng hình thức này.
Trọng tài thương mại sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sẽ không thể phát triển nếu thiếu một cơ chế đảm bảo thi hành hiệu quả. Để đảm bảo việc thi hành phán quyết trọng tài thì cần hạn chế việc hủy phán quyết trọng tài đối với trọng tài trong nước và hạn chế việc không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài một cách tùy tiện, thiếu tính thuyết phục.
Các căn cứ xem xét hủy phán quyết trọng tài trong nước hiện nay được quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, gồm các trường hợp: Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu; thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này; vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ; chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài; phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Các căn cứ hủy phán quyết trọng tài này chưa thật sự rõ ràng và trên thực tế, Tòa án đã áp dụng rất khác nhau, đặc biệt là đối với căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Điều này đã tạo ra rủi ro quá lớn cho các phán quyết trọng tài và tạo sự thiếu yên tâm của “người dùng” (các bên tranh chấp) đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Đối với việc công nhận hoặc không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Luật TTTM không quy định chi tiết về vấn đề này mà do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Ngoài ra, Việt Nam cũng là thành viên của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài từ năm 1995.
Tuy vậy, “sau gần 30 năm Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, tỷ lệ công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam vẫn ở mức thấp. Theo thống kế của Bộ Tư pháp (tính từ ngày 01/01/2012 đến ngày 30/9/2019), có 84 đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có:
39 đơn yêu cầu được công nhận và cho thi hành (chiếm tỷ lệ 47%);
12 đơn yêu cầu bị đình chỉ giải quyết; và
33 đơn yêu cầu bị từ chối công nhận và cho thi hành (chiếm tỷ lệ 39,3%)” [15].
Tỷ lệ công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài còn ít như nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quy định của pháp luật không rõ ràng, còn nhiều bất cập. Chẳng hạn, đối tượng cho công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là “phán quyết trọng tài nước ngoài” hay “phán quyết của trọng tài nước ngoài” hay “quyết định của trọng tài nước ngoài”? Các căn cứ không công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất giữa các cấp Tòa án trong việc chấp nhận hoặc từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, chẳng hạn như trường hợp “phán quyết của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Với thực trạng nêu trên, tác giả cho rằng cần sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại hiện hành theo hướng quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn về các trường hợp hủy phán quyết trọng tài, cần một cơ chế hiệu quả hơn trong việc bảo vệ, bảo đảm hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài. Có thể xem xét đến việc cần một cơ chế giám sát đối với việc hủy phán quyết trọng tài của Tòa án. Ngoài ra, Luật Trọng tài thương mại cần có quy định rõ hơn về “phán quyết trọng tài nước ngoài”, “quyết định của trọng tài nước ngoài” và Luật Trọng tài thương mại có thể quy định cụ thể về các căn cứ công nhận hoặc không công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài (Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận, không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam).
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ giao thương ngày càng gia tăng và hệ quả tất yếu là kéo theo sự gia tăng của các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Để phù hợp với bối cảnh ấy, cần có các cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả, công bằng, đáp ứng được kỳ vọng của nhà đầu tư, doanh nghiệp, doanh nhân và các bên tranh chấp. Do vậy, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đế đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Trong phạm vi nghiên cứu hạn hẹp của bài viết này, tác giả đề xuất Luật Trọng tài thương mại cần sửa đổi, bổ sung theo hướng phù hợp với Luật Mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về Thương mại quốc tế (UNCITRAL); cần mở rộng thẩm quyền của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp; cần bổ sung các quy định, cơ chế mới trong trọng tài quốc tế phù hợp với bối cảnh Việt Nam như trọng tài viên khẩn cấp, thủ tục trọng tài rút gọn và đặc biệt là pháp luật trọng tài thương mại cần sửa đổi, bổ sung để hạn chế tình trạng hủy phán quyết trọng tài trong nước và không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật Dân sự năm 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo đánh giá, so sánh quy định pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài với Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, đề xuất khả năng áp dụng Luật Mẫu tại Việt Nam
Chu Thị Hoa (2022), Nhu cầu phát triển và các yếu tố ảnh hưởng đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hòa giải trực tuyến, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Đỗ Văn Đại (2022), Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Hồng Đức
Hội Luật gia Việt Nam (2023), Dự thảo 6 Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại
Huỳnh Quang Thuận (2020), Trọng tài viên khẩn cấp – Cơ chế hữu hiệu để phát triển trọng tài thương mại?, Tài liệu Hội thảo Khoa học Kinh nghiệm nước ngoài, quốc tế trong việc phát triển trọng tài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 05/12/2020
Redfern & Hunter, Trọng tài Quốc tế (Ấn bản lần thứ sáu), Nxb Thanh Niên, 2018
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) (2023), Thực tiễn công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Tài liệu Hội nghị Bồi dưỡng nghiệp vụ Luật sư năm 2023 do Sở Tư pháp – Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 17/6/2023
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật Trọng tài thương mại, Nxb Hồng Đức
Đọc thêm: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển Trọng tài Thương mại tại Việt Nam.
Bài viết trên đã đưa ra những đề xuất để Hoàn thiện pháp luật về Trọng tài Thương mại trong bối cảnh Hội nhập kinh tế Quốc tế. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn
Cùng MCAC tìm hiểu Quyết định số 786/2022/QĐ-PQTT của Tòa án Nhân dân TP.HCM ngày 07/06/2022 về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong vụ tranh chấp giữa Công ty C và Công ty F liên quan đến vi phạm thủ tục tố tụng và chứng cứ giả mạo.
Khám phá các vấn đề pháp lý liên quan đến trọng tài thương mại trong Quyết 08/2022/QĐ-PQTT ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, vụ tranh chấp về Hợp đồng thương mại giữa Công ty BH và Công ty LTD đã nổi bật những điểm quan trọng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Quyết định này không chỉ làm sáng tỏ quy trình xử lý của Hội đồng Trọng tài mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.