Điện thoại: 0935 925 068
17/03/2023
Theo Điều 13 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án.”
Để cụ thể vấn đề “mất quyền phản đối” thì tại Điều 6, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định về Luật trọng tài thương mại (Nghị quyết số 01/20214/NQ-HĐTP) đã có những quy định như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp một bên tranh chấp biết về những hành vi vi phạm Luật Trọng tài thương mại hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện quá trình tố tụng cũng như không thể hiện sự phản đối về những vi phạm này với Hội đồng trọng tài hay Trung tâm trọng tài trong thời hạn do Luật TTTM quy định thì mất quyền phản đối những quy định đó tại Trọng tài, Tòa án. Nếu Luật TTTM không quy định thời hạn thì thời hạn được tính theo thỏa thuận giữa các bên tranh chấp hoặc theo quy tắc tố tụng trọng tài. Nếu các bên không thỏa thuận về thời hạn cũng như quy tắc tố tụng trọng tài cũng không quy định về vấn đề đó thì việc phản đối phải được thực hiện trước khi Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định rõ ràng về các trường hợp tranh chấp mất quyền phản đối.
Thứ hai, khi các bên tranh chấp có yêu cầu về việc có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của thỏa thuận trọng tài, Tòa án trước khi xem xét yêu cầu đó phải kiểm tra các tài liệu, chứng cứ, quy tắc tố tụng trọng tài để xác định rằng bên yêu cầu có mất quyền phản đối với vấn đề đó không.
Trường hợp Tòa án xác định mất quyền phản đối với vi phạm nói trên (Theo quy định tại Điều 13 Luật TTTM và khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP) thì bên mất quyền phản đối cũng mất quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài và yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Tòa án không được căn cứ vào các vi phạm trên để quyết định chấp nhận yêu cầu của một hoặc các bên.
Thứ ba, Tòa án phải có trách nhiệm xem xét quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 68 Luật TTTM khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Nếu Tòa án thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu thì Tòa án vẫn có quyền quyết định dù cho một hoặc các bên đã mất quyền phản đối.
Xem thêm: Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được
Quyền phản đối là một trong những quyền của người dân để bảo vệ quyền lợi cá nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi xảy ra tranh chấp, một hoặc các bên có thể mất quyền phản đối. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.
Cùng MCAC tìm hiểu Quyết định số 786/2022/QĐ-PQTT của Tòa án Nhân dân TP.HCM ngày 07/06/2022 về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong vụ tranh chấp giữa Công ty C và Công ty F liên quan đến vi phạm thủ tục tố tụng và chứng cứ giả mạo.
Khám phá các vấn đề pháp lý liên quan đến trọng tài thương mại trong Quyết 08/2022/QĐ-PQTT ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, vụ tranh chấp về Hợp đồng thương mại giữa Công ty BH và Công ty LTD đã nổi bật những điểm quan trọng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Quyết định này không chỉ làm sáng tỏ quy trình xử lý của Hội đồng Trọng tài mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.