Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 1212/2023/QĐ-PQTT NGÀY 19/7/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

21/02/2025

1. Nội dung vụ việc có liên quan 

Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã giải quyết tranh chấp về Hợp đồng số 01/2021/CÔNG TY M-CÔNG TY O ký ngày 26/10/2021 (gọi tắt là “Hợp đồng 01 ba Bên”) giữa Nguyên đơn là Công ty Cổ phần Hóa dược phẩm M (gọi tắt là “Công ty M”) và Bị đơn là Công ty Cổ phần Tập đoàn A (gọi tắt là “Công ty A”).

Bị đơn là Công ty A khiếu nại đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp vì lý do: Thứ nhất, Bị đơn cho rằng Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài. Thứ hai, Bị đơn cho rằng Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Công ty A có ý kiến trình bày cụ thể như sau: Đối với yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài vì lý cho rằng Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài, Công ty A chuyển tiền cho công ty M nhằm thực hiện Hợp đồng số 02 chứ không phải để thực hiện Hợp đồng số 01 giữa ba Bên và Hợp đồng số 02 không có điều khoản quy định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Ngoài ra, Công ty A cho rằng Nguyên đơn có yêu cầu xác nhận rằng Công ty M không nợ Công ty A số tiền 17.765.000.000 đồng, khoản tiền này không liên quan đến Hợp đồng số 01, do đó, yêu cầu của Nguyên đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài. Vì vậy, Công ty A cho rằng Hội đồng Trọng tài đã bỏ qua nhiều chứng cứ chứng minh giữa các bên không có thỏa thuận trọng tài.

Công ty A cho rằng Phán quyết Trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam vì mặc dù phía công ty A chưa có ý kiến về yêu cầu khởi kiện bổ sung của công ty M nhưng Hội đồng Trọng tài vẫn ban hành phán quyết cuối cùng.

 

Hội đồng xét đơn nhận thấy: Đối với yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài vì cho rằng Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trung tâm trọng tài X, Hội đồng xét đơn nhận thấy Hợp đồng số 02 là không có thật. Mặc dù đã có Hợp đồng số 01 giữa công ty M và công ty O, tuy nhiên Công ty A và Công ty M vẫn ký hợp đồng số 01 ba Bên mà không có chữ ký của công ty O. Công ty M lý giải rằng việc này nhằm khẳng định Hợp đồng số 01 là giao dịch ba Bên, xác lập quyền và nghĩa vụ của cả ba Bên, dù theo phiên bản hai bên hay ba Bên. Cả hai bản Hợp đồng số 01 đều quy định Trung tâm trọng tài X có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì vậy, yêu cầu của công ty A về việc hủy phán quyết trọng tài số do Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X không có thẩm quyền là không có cơ sở để chấp nhận.

Hội đồng xét đơn nhận thấy: Công ty A cho rằng Phán quyết Trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, tuy nhiên các căn cứ mà Bị đơn viện dẫn nêu trên thuộc nội dung giải quyết Vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài.

Tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết……………”. Ngoài ra, căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà cần kiểm tra phán quyết trọng tài có thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM hay không..”. Dựa trên các quy định pháp luật, khi giải quyết Đơn yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp, Tòa án chỉ xem xét dưới góc độ về tố tụng. Vì vậy, ý kiến này của Công ty A không thuộc phạm vi giải quyết của Hội đồng xét đơn.

Tại khoản 1 Điều 9 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC) cũng quy định như sau: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tiếp theo của ngày nhận được Thông báo, Đơn khởi kiện, Thỏa thuận trọng tài và các tài liệu khác có liên quan, Bị đơn phải gửi tới Trung tâm Bản tự bảo vệ”[2] và tại khoản 4 Điều 9 của Quy tắc cũng có quy định: “Trường hợp Bị đơn không gửi Bản tự bảo vệ, Tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành”[3]. Theo diễn biến Vụ tranh chấp, Công ty A không có đơn yêu cầu gia hạn và cũng không gửi bản tự bảo vệ đến Hội đồng Trọng tài. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài tiến hành phiên họp và ban hành phán quyết cuối cùng là phù hợp với quy định pháp luật.

Căn cứ theo quy định pháp luật và tình hình thực tế Vụ tranh chấp, Hội đồng xét đơn nhận định: Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X có thẩm quyền giải quyết Vụ tranh chấp trên và Phán quyết của Hội đồng Trọng tài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam như Công ty A yêu cầu. Do đó, yêu cầu huỷ Phán quyết trọng tài của Công ty A là không có cơ sở để chấp nhận.

 

2. Trích dẫn nội dung Bản án, Quyết định có liên quan

TÒA ÁN NHÂN DÂN                                    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH                                    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                      

Số: 1212/2023/QĐ-PQTT               Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 7 năm 2023

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC KHÔNG HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI

 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa: Bà Phùng Thị Như Mai

Các Thẩm phán:  Ông Đỗ Quốc Đạt  

                               Bà Hà Thanh Thủy

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp: Bà Phùng Thị Lan - Kiểm sát viên.   

Thư ký ghi biên bản phiên họp: Ông Phan Thị Thu Hiền- Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là TP.HCM)    

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài nộp ngày 21/4/2023 của Công ty cổ phần Tập đoàn A là bị đơn trong Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp ngày 22/3/2023 của Trung tâm trọng tài X tại TP.HCM với nguyên đơn là Công ty Cổ phần Hóa dược phẩm M.

Các bên tham gia phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gồm:

  • Bên yêu cầu: Công ty cổ phần Tập đoàn A (Sau đây gọi tắt là Công ty A)
  • Bên liên quan:

1. Công ty Cổ phần Hóa dược phẩm M (Sau đây gọi tắt là Công ty M

2. Công ty Cổ phần Đầu tư mua bán nợ S (Sau đây gọi tắt là Công ty S)

Căn cứ vào các đơn yêu cầu, văn bản của các bên nộp cho Tòa án và trình bày tại phiên họp hôm nay.

NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP 

Qua hồ sơ, tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các bên cung cấp liên quan đến vụ việc, nội dung vụ tranh chấp được tóm tắt như sau:

Ngày 14/10/2021, Công ty M và công ty MHK (sau đây gọi tắt là MHK) ký hợp đồng số 01-10/CÔNG TY M-MHK (sau đây gọi tắt là hợp đồng 01-10) về việc xuất khẩu thuốc:

Ngày 26/10/2021, công ty M, công ty A và công ty O Ấn Độ (sau đây gọi tắt là công ty O) ký hợp đồng 3 bên số 01/2021/CÔNG TY M-CÔNG TY O (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 01 ba bên). Hợp đồng thỏa thuận CÔNG TY M là bên mua 5.000 kg nguyên liệu sản xuất thuốc Molnupiravir, công ty O là bên bán, công ty A là bên thứ ba thanh toán.

Tuy nhiên, hợp đồng không thực hiện được, ngân hàng từ chối Công ty A thanh toán do Công ty A không phải là chủ sở hữu đối với số nguyên liệu trên. Vì vậy, công ty M và công ty O ký hợp đồng 01/2021/CÔNG TY M – CÔNG TY O cùng ngày 26/10/2021 (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 01 hai bên). Giữa công ty M và công ty O còn ký phụ lục hợp đồng ngày 26/10/2021 về việc giao 1.000 kg nguyên liệu sản xuất thuốc. Công ty A không còn là bên thứ ba thanh toán trong hợp đồng.

Sau đó Công ty A và công ty M đã thảo luận về việc hợp tác sản xuất và xuất khẩu thuốc số 02/2021/HTKD (sau đây gọi tắt là Hợp đồng 02). Ngày 15/11/2021 và ngày 24/11/2021, Công ty A thực hiện 3 lệnh chuyển tiền vào tài khoản của công ty M với tổng giá trị là 17.765.000.000 đồng. Nội dung của 3 lệnh chuyển tiền là “AAMT GROUP CHUYEN TIEN THANH TOAN CHO CONG TY O THEO HOP DONG 02/2021/HTKD”. Tuy nhiên do hai bên không thống nhất được nội dung hợp đồng nên đã không tiến hành ký hợp đồng 02. B.T bộ số tiền Công ty A chuyển cho công ty M là để thực hiện hợp đồng 01. Dù hợp đồng không được thực hiện nhưng công ty M không chuyển trả tiền cho Công ty A. Công nợ này đã được công ty M xác nhận tại thư xác nhận công nợ ngày 05/4/2022.

Ngày 07/11/2022, Công ty A ký hợp đồng bán nợ số HD0368 cho Công ty Cổ phần Đầu tư mua bán nợ S (sau đây gọi tắt là công ty S). Hợp đồng thỏa thuận chuyển nợ của công ty M từ Công ty A qua Công ty S. Ngày 01/12/2022, công ty M khởi kiện Công ty A và Công ty S tại Trung tâm trọng tài X yêu cầu:

  1. Yêu cầu hợp đồng mua bán nợ số HD0368 ngày 07/11/2022 vô hiệu.
  2.  Ghi nhận ý kiến của công ty M về việc Công ty A và công ty M tiếp tục tìm đối tác nước ngoài để sản xuất thuốc Molnupiravir caspules 200 mg xuất khẩu.
  3.  Cho phép công ty M được B.T quyền xử lý số lượng nguyên vật liệu chứa dược chất sản xuất thuốc Molnupiravir xuất khẩu theo hợp đồng số 01 còn tồn kho (khi hết hạn sử dụng) theo quy định pháp luật. Thiệt hại xảy ra (nếu có) hai bên tự chịu theo tỷ lệ số tiền đã thanh toán cho người bán (Công ty O).

Ngày 15/2/2023, công ty M có đơn xin sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện, bổ sung

yêu cầu: Tuyên xử trong việc thực hiện hợp đồng số 01/2021 ký ngày 26/10/2021 giữa

ba bên công ty M, công ty A và công ty O, công ty M không nợ Công ty A khoản tiền

17.765.000.000 đồng.

Ngày 22/3/2023, Hội đồng Trọng tài ban hành phán quyết như sau:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của công ty M, xác định công ty M không nợ Công ty A khoản tiền 17.765.000.000 đồng.
  2.  Đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nợ số HD0368 ngày 07/11/2022 vô hiệu.
  3. ……………….

Không đồng ý với phán quyết trọng tài nêu trên, Công ty A có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đề ngày 22/3/2023 gửi Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị hủy Phán quyết Trọng tài số 141/22 HCM.

…………….

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xem xét Đơn yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc, ý kiến của những người được Tòa án triệu tập đến phiên họp và quan điểm của Trung tâm trọng tài X; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét đơn nhận định: 

1. Về tố tụng:  ………..

2. Về nội dung:

Xét yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Công ty A Hội đồng xét đơn thấy: 

2.1. Đối với ý kiến cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài:

………

Tại điều khoản thỏa thuận giải quyết tranh chấp của Hợp đồng số 01 (hai bên hay ba bên) đều thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài X có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì vậy, ý kiến của Công ty A yêu cầu hủy phán quyết trọng tài số 141/22 HCM ngày 22/3/2023 do Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X không có thẩm quyền giải quyết là không có cơ sở để chấp nhận.

2.2. Đối với ý kiến cho rằng Phán quyết Trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam:

Trong đơn yêu cầu và trong bản ý kiến của công ty A gửi đến Tòa án chỉ nêu ra yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài do vi phạm nguyên tắc cơ bản của Pháp luật Việt Nam mà không nêu được Hội đồng Trọng tài đã vi phạm nguyên tắc nào.

………

Hội đồng phiên họp nhận thấy các căn cứ mà công ty A viện dẫn nêu trên thuộc nội dung giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài. Căn cứ khoản 1 Điều 15 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Hội đồng phiên họp không xem xét lại nội dung vụ tranh chấp. Đối với ý kiến của công ty A về việc ngày 20/02/2023 khi công ty M có yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện và Trung tâm Trọng tài thông báo cho công ty A nhưng phía công ty A chưa có ý kiến về yêu cầu bổ sung này mà Hội đồng Trọng tài vẫn mở phiên họp và ban hành phán quyết cuối cùng; Hội đồng xét thấy căn cứ Điều 9 Quy tắc tố tụng Trọng tài của Trung tâm trọng tài X thì công ty A trong thời hạn 30 ngày phải gửi bản tự bảo vệ cho Trung tâm, nếu cần thiết gia hạn thì phải làm đơn (khoản 2 Điều 9) và tố tụng trọng tài vẫn thực hiện kể cả khi công ty A không gửi bản tự bảo vệ (khoản 4 Điều 9). Công ty A không có đơn yêu cầu gia hạn và cũng không gửi bản tự bảo vệ đến Hội đồng Trọng tài. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài tiến hành phiên họp và ban hành phán quyết cuối cùng vào ngày 22/3/2023 là phù hợp với Quy tắc tố tụng Trọng tài nêu trên.

Từ những nhận định ở trên, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của công ty A là không có cơ sở để chấp nhận.

………

Vì các lẽ trên!

  • Căn cứ khoản 2 Điều 31, Điểm a Khoản 3 Điều 38, Khoản 3 Điều 414 và Điều 415 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
  • Căn cứ các Khoản 1 Điều 43, Điều 68, 69, 71 và 72 Luật Trọng tài Thương mại 2010; 

…………..

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần Tập đoàn A về việc hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp ngày 22/3/2023 tại Thành phố Hồ Chí Minh bởi Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài X

2. …………

Bài viết trên MCAC đã nêu rõ các nội dung liên quan đến Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 1212/2023/QĐ-PQTT ngày 19/7/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chi tiết xin liên hệ: hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.

Xem thêm: Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong quyết định số 2515/2023/QĐ-PQTT ngày 29/11/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Tin liên quan

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 2515/2023/QĐ-PQTT NGÀY 29/11/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]
13 02/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 2515/2023/QĐ-PQTT NGÀY 29/11/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH [1]

Quyết định số 2515/2023/QĐ-PQTT ngày 29/11/2023 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nêu rõ việc hủy phán quyết trọng tài do vi phạm quy định về thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn. Quyết định này thể hiện sự chặt chẽ trong việc đảm bảo tính công bằng và tuân thủ quy định pháp luật về trọng tài thương mại.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 13/2023/QĐ-PQTT NGÀY 24/8/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI [1]
07 02/2025

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỂ HIỆN TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 13/2023/QĐ-PQTT NGÀY 24/8/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI [1]

Tìm hiểu những vấn đề pháp lý quan trọng về trọng tài thương mại qua Quyết định số 13/2023/QĐ-PQTT của Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội. Cùng MCAC phân tích chi tiết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm và cơ sở pháp lý của phán quyết trọng tài.

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG