Điện thoại: 0935 925 068
20/06/2025
Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng thi công xây dựng công trình số 18/2014/HĐTC/FLC-HBC đề ngày 01/12/2014 (Hợp đồng 18) giữa Nguyên đơn là Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H (gọi tắt là “Công ty H”) và Bị đơn là Công ty cổ phần tập đoàn F (gọi tắt là “Công ty F”).
Sau đó, Bị đơn là Công ty F đã khiếu nại đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy Phán quyết Trọng tài Vụ tranh chấp vì lý do: Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X đã không xem xét khách quan tài liệu chứng cứ giao nộp, sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, ban hành Phán quyết Trọng tài không phù hợp với quy định pháp luật, trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tại phiên họp, Bị đơn cho rằng đã đề nghị triệu tập kiểm toán viên để làm rõ các số liệu mà Nguyên đơn đã đưa ra, nhưng Hội đồng Trọng tài không triệu tập.
Hội đồng xét đơn thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Hội đồng xét đơn) nhận thấy:
Thứ nhất, về thủ tục tố tụng, tại phiên họp Vụ tranh chấp, phía Bị đơn đã đề nghị triệu tập kiểm toán viên để làm rõ số liệu tài chính, và nội dung này được chính Nguyên đơn xác nhận. Tuy nhiên sau đó, Bị đơn nêu rằng sẽ đề nghị Công ty kiểm toán có văn bản giải thích cho Hội đồng Trọng tài. Thực tế, trong quá trình tố tụng tại Tòa án, các Bên không yêu cầu trưng cầu giám định băng ghi âm ghi lại phiên họp. Do đó, căn cứ Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì thuộc trường hợp không phải chứng minh và cũng không cần thiết giám định băng ghi âm.
Thứ hai, theo Văn bản số 283/X-HCM ngày 22/02/2021 của Hội đồng Trọng tài, căn cứ khoản 2 Điều 55 Luật Trọng tài thương mại và khoản 3 Điều 25 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài X, Bị đơn có quyền mời kiểm toán viên tham gia Phiên họp với tư cách người làm chứng, nhưng thực tế Bị đơn đã không thực hiện quyền này. Mặt khác, tại phiên họp ngày 17/10/2020, Bị đơn xác nhận “không còn cung cấp thêm bất cứ ý kiến, tài liệu nào để cung cấp”.
Thứ ba, tại Biên bản phiên họp ngày 17/10/2020 thể hiện rõ: “Các bên không có ý kiến phản đối nào về quá trình tiến hành tố tụng trọng tài, các bên thống nhất trọng tài không vi phạm nguyên tắc cơ bản, không phản đối tính xác thực của tất cả các tài liệu được các bên nộp trong quá trình tố tụng trọng tài, xác nhận các sự kiện, nội dung được nêu trong các tài liệu này và đề nghị Hội đồng Trọng tài xem xét là các chứng cứ để giải quyết tranh chấp”. Theo đó, các Bên đã đồng ý và có chữ ký xác nhận trong Biên bản. Như vậy, mặc dù Bị đơn có đề nghị triệu tập kiểm toán viên nhưng sau đó đã không phản đối quá trình tố tụng trọng tài, và kết thúc Phiên họp đã ký xác nhận vào Biên bản phiên họp với nội dung không khiếu nại thủ tục trọng tài, không phản đối tính xác thực của các chứng cứ mà các Bên đã nộp.
Tại khoản 4 Điều 38 Quy tắc Tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Trung (MCAC) cũng quy định như sau: “Trong trường hợp một bên phát hiện có sự vi phạm quy định của Pháp luật về Trọng tài, của Quy tắc Tố tụng này hoặc của Thỏa thuận trọng tài mà không phản đối trong thời hạn quy định của Quy tắc Tố tụng này thì mất quyền phản đối về những vi phạm đó. Đối với các trường hợp không quy định thời hạn phản đối thì việc phản đối phải được đưa ra chậm nhất trước thời điểm Hội đồng Trọng tài tuyên bố phiên họp giải quyết vụ tranh chấp là phiên họp cuối cùng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”[2]. Do đó, việc Bị đơn không phản đối trong thời hạn quy định dẫn đến mất quyền phản đối, nên không có cơ sở để xác định Hội đồng Trọng tài đã vi phạm thủ tục trọng tài.
Thứ tư, đối với yêu cầu thanh toán nợ của Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài đã căn cứ không chỉ vào thư xác nhận của Bị đơn, mà còn dựa trên cơ sở Báo cáo tài chính riêng và hợp nhất của Bị đơn trong các năm 2016 - 2017, trong đó ghi nhận khoản nợ gốc và lãi phạt. Do vậy, việc triệu tập kiểm toán viên là không cần thiết, và Hội đồng Trọng tài căn cứ vào chứng cứ nêu trên là phù hợp với pháp luật, không vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, đối với ý kiến của Bị đơn cho rằng Hội đồng Trọng tài tính toán lãi vượt mức trung bình quá hạn theo Điều 306 Luật Thương mại và phân bổ chi phí luật sư không hợp lý, thì theo khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng Trọng tài đã giải quyết”. Do đó, Hội đồng xét đơn không có thẩm quyền xét lại nội dung tranh chấp mà Hội đồng Trọng tài đã giải quyết.
Căn cứ theo quy định pháp luật và tình hình thực tế Vụ tranh chấp, Hội đồng xét đơn nhận định: Hội đồng Trọng tài đã giải quyết Vụ tranh chấp trên theo đúng quy định, Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X được ban hành theo đúng quy định pháp luật, quy tắc tố tụng trọng tài. Các căn cứ đề nghị hủy Phán quyết Trọng tài của Bị đơn chủ yếu là những nhận xét, đánh giá theo quan điểm của Bị đơn và không đưa ra được căn cứ pháp lý nào theo quy định tại Điều 68 Luật TTTM để Hội đồng xét đơn xem xét. Vì vậy, yêu cầu huỷ Phán quyết Trọng tài của Bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 300/2021/QĐ-PQTT Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 3 năm 2021
QUYẾT ĐỊNH
VỀ YÊU CẦU HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa: Bà Nguyễn Thị Thùy Dung
Các Thẩm phán: 1. Bà Trương Thị Thảo
2. Bà Lưu Thị Đoan Trang
Thư ký ghi biên bản phiên họp: Bà Võ Thị Thu Hà - Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp: Bà Trương Thị Hồng Hoa- Kiểm sát viên.
Trong các ngày 02 tháng 02; ngày 02 và 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự thụ lý số 204/2020/TLST-KDTM ngày 14 tháng 12 năm 2020 về việc yêu cầu Hủy phán quyết trọng tài theo Quyết định mở phiên họp số 899/2020/QĐ-MPH ngày 29/12/2020 và Quyết định hoãn phiên họp số 421/2021/QĐST-KDTM ngày 19/01/2021 giữa các đương sự:
Người yêu cầu: Công ty cổ phần tập đoàn F
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H.
Tại phiên họp các đại diện hợp pháp của đương sự có mặt.
Nội dung vụ việc: Ngày 01/12/2014, Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H (Sau đây gọi tắt là Công ty H) và Công ty cổ phần tập đoàn F (sau đây gọi tắt là Công ty F) ký hợp đồng thi công xây dựng công trình số: 18/2014/HĐTC/FLC-HBC (Hợp đồng 18) với các nội dung thỏa thuận: Bị đơn đồng ý giao nguyên đơn cung cấp vật tư thiết bị và thi công xây lắp phần kết cấu, hoàn thiện, cơ điện và nội thất hạng mục Khu Fusion và Khu Alacarte thuộc dự án Khu đô thị du lịch sinh thái F Sầm Sơn tại địa điểm xã Q, Thị xã S, tỉnh T, với giá trị tạm tính là 737.914.034.027 đồng (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng).
Nguyên đơn đã tiến hành thi công công trình và cung cấp vật tư, thiết bị đúng thỏa thuận trong Hợp đồng 18 với giá trị quyết toán (tổng giá trị xuất hóa đơn) là 418.589.275.527 đồng và đã được bị đơn tạm ứng, thanh toán 03 lần với số tiền 255.000.000.000 đồng, đồng thời nguyên đơn cũng đã bàn giao các hạng mục công việc theo Hợp đồng 18, nguyên đơn đã bàn giao công trình cho bị đơn đưa vào vận hành kinh doanh kể từ tháng 8/2015 theo công bố công khai của bị đơn. Phía nguyên đơn đã hoàn tất đầy đủ các thủ tục hồ sơ quyết toán Hợp đồng 18 và chuyển giao hợp lệ các tài liệu này vào ngày 08/8/2016. Tuy nhiên bị đơn không phê duyệt cũng như không thanh toán tổng số tiền còn lại trong Hợp đồng 18 là 163.589.275.527 đồng.
Qua nhiều lần xử lý công nợ, nguyên đơn đã đồng ý giảm cho bị đơn một phần tiền lãi phạt theo Hợp đồng 18 là 9.951.537.863 đồng. Hai bên thống nhất nợ và lãi chậm thanh toán là 213.150.684.628 đồng, số tiền này luôn được bị đơn xác nhận và đưa vào báo cáo tài chính của bị đơn từ cuối năm 2016 đến 2017 và đưa vào Báo cáo bạch gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước để thực hiện nghĩa vụ của nhà phát hành cổ phần.
……………………
Ngày 06/2/2020, Công ty H đã nộp đơn khởi kiện Công ty F tại Trung tâm trọng tài X yêu cầu bị đơn thanh toán tổng cộng 238.154.791.177 đồng, bao gồm tiền nợ gốc 163.589.275.527 đồng, tiền phạt do chậm trả 16.304.540.869 đồng, lãi chậm trả 52.760.902.781 đồng, phí luật sư 5.500.000.000 đồng.
Ngày 14/11/2020, Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài X lập tại Thành phố H đã ban hành Phán quyết Trọng tài có nội dung như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bị đơn – Công ty cổ phần tập đoàn F phải thanh toán cho nguyên đơn Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H số tiền 234.854.719.177 đồng, cụ thể gồm các khoản:
a) Tiền nợ gốc còn thiếu là 163.589.275.527 đồng
b) Tiền phạt và tiền lãi chậm trả là 69.065.443.650 đồng
c) Chi phí luật sư là 2.200.000.000 đồng
Tổng cộng: 234.854.719.177 đồng.
2. Nguyên đơn đã nộp tổng phí trọng tài với số tiền 2.272.574.000 đồng. Bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn toàn bộ phí trọng tài là 2.272.574.000 đồng.
3. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn toàn bộ các khoản tiền nêu tại mục IV.1 và Mục IV.2 của Phán quyết này trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết này. Trong trường hợp chậm thanh toán:
a) Đối với khoản tiền tại Mục IV.1.a, kể từ ngày 18/10/2020 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán, bị đơn trả thêm tiền lãi với mức lãi suất là 12%/năm trên số tiền chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.
b) Đối với các khoản ở các mục IV.1.b. IV.1.c và Mục IV.2, kể từ ngày lập Phán quyết cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán, bị đơn phải trả thêm tiền lãi với mức lãi suất là 10%/năm, tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.
4. Phán quyết Trọng tài được lập ngày 14/11/2020 tại Thành phố H, Việt Nam. Phán quyết trọng tài này có giá trị chung thẩm, ràng buộc các bên và có hiệu lực kể từ ngày lập.
Không đồng ý với Phán quyết của trọng tài, ngày 20/11/2020, Công ty cổ phần tập đoàn F đã nộp đơn khởi kiện tại Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu xem xét huỷ toàn bộ nội dung Phán quyết Trọng tài ngày 14/11/2020 của Trung tâm trọng tài X với các lý do Hội đồng Trọng tài đã không xem xét khách quan tài liệu chứng cứ giao nộp, sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, ban hành Phán quyết không phù hợp với quy định pháp luật, trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Tại phiên họp ngày 02/02/2021, đại diện người yêu cầu Công ty cổ phần tập đoàn F vẫn giữ nguyên yêu cầu và ý kiến đã trình bày. Đồng thời cho rằng, tại phiên họp có đề nghị triệu tập kiểm toán viên và Công ty kiểm toán để làm rõ số liệu mà phía Công ty H khởi kiện. Sau phiên họp, phía Công ty F có nộp đĩa ghi âm kèm theo bản dịch để chứng minh lời trình bày của mình. Đồng thời, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, đề nghị Hội đồng Trọng tài cung cấp biên bản phiên họp, có hay không đề nghị thu thập chứng cứ của phía Công ty F, làm rõ việc phân bổ chi phí luật sư trong phán quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H trình bày: Công ty H vẫn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Qua kiểm sát vụ việc từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ việc, Tòa án có quyết định mở phiên họp và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn, cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng mở phiên họp: Tại phiên họp hôm nay, phiên họp tiến hành đúng trình tự pháp luật Tố tụng Dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung: Không có căn cứ để xác định Hội đồng Trọng tài đã vi phạm tố tụng trọng tài trong quá trình giải quyết vụ án. Nội dung phán quyết không vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do đó, đề nghị hội đồng xét đơn căn cứ Khoản 5 Điều 71 Luật Trọng tài Thương mại không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty F.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi xem xét toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện được thẩm tra tại phiên họp; nghe ý kiến tranh luận của các đương sự; nghe ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét đơn nhận định:
[1] ………….
[2] Về nội dung: Xét thấy người yêu cầu là Công ty cổ phần tập đoàn F đề nghị hủy phán quyết trọng tài do Hội đồng Trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài, cụ thể là tại phiên họp, đã đề nghị triệu tập kiểm toán viên để làm rõ các số liệu mà Công ty H đã đưa ra tại phiên họp nhưng Hội đồng Trọng tài không triệu tập, phán quyết của trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
[2.1] Xét thấy về thủ tục tố tụng: Tại Tòa án, Công ty F có nộp cho Tòa án băng đĩa ghi âm kèm theo bản dịch để chứng minh rằng tại phiên họp có yêu cầu trọng tài triệu tập kiểm toán viên. Phía Công ty H cũng thừa nhận tại phiên họp, phía Công ty F có đề nghị Hội đồng Trọng tài triệu tập kiểm toán viên, tuy nhiên, sau đó, phía Công ty F cho rằng sẽ đề nghị Công ty kiểm toán có văn bản giải thích cho Hội đồng Trọng tài. Trong quá trình tố tụng tại Tòa án các bên không yêu cầu trưng cầu giám định băng ghi âm, hơn nữa, việc yêu cầu triệu tập kiểm toán viên và việc này đã được phía Công ty H thừa nhận. Do đó, căn cứ Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì thuộc trường hợp không phải chứng minh và cũng không cần thiết giám định băng ghi âm.
[2.2] Theo Văn bản số 283/X-HCM ngày 22/2/2021 của Hội đồng Trọng tài phiên họp thuộc Trung tâm trọng tài X thì “theo khoản 2 Điều 55 Luật Trọng tài thương mại, khoản 3 Điều 25 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài có hiệu lực ngày 01/2/2017 và được nêu rõ trong Giấy triệu tập số 1419/X-HCM, bị đơn hoàn toàn có quyền mời các kiểm toán viên này tham gia phiên họp với tư cách là người làm chứng, tuy nhiên bị đơn đã không thực hiện quyền này…Tại phiên họp giải quyết tranh chấp ngày 17/10/2020, bị đơn cũng đã xác nhận “không còn cung cấp thêm bất cứ ý kiến, tài liệu nào để cung cấp”.
[2.3] Tại Biên bản phiên họp ngày 17/10/2020 của Trung tâm trọng tài thể hiện: “các bên không có ý kiến phản đối nào về quá trình tiến hành tố tụng trọng tài, các bên thống nhất trọng tài không vi phạm nguyên tắc cơ bản, không phản đối tính xác thực của tất cả các tài liệu được các bên nộp trong quá trình tố tụng trọng tài, xác nhận các sự kiện, nội dung được nêu trong các tài liệu này và đề nghị Hội đồng Trọng tài xem xét là các chứng cứ để giải quyết tranh chấp”. Biên bản phiên họp này có chữ ký của bên Công ty F và Công ty H ký xác nhận vào. Như vậy, mặc dù phía Công ty F có đề nghị triệu tập kiểm toán viên nhưng sau đó đã không phản đối quá trình tố tụng trọng tài, cuối buổi họp đã ký xác nhận vào Biên bản phiên họp với nội dung không khiếu nại thủ tục trọng tài, không phản đối tính xác thực của các chứng cứ mà các bên nộp. Do đó, không có cơ sở để xác định Hội đồng Trọng tài đã vi phạm thủ tục trọng tài.
[2.4] Ngoài ra, đối với số nợ mà Công ty H yêu cầu Công ty F phải thanh toán thì hội đồng xét đơn đã xem xét nội dung phán quyết của Hội đồng Trọng tài không chỉ dựa vào Thư xác nhận của Công ty F mà còn dựa các Báo cáo tài chính riêng, Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2016-2017, trong đó, phía Công ty F đã đưa vào Báo cáo tài chính của mình số nợ của Hợp đồng số 18 ký với Công ty H, số nợ 163.589.275.527 đồng nợ gốc và 26.526.078.722 đồng tiền lãi phạt. Như vậy, việc triệu tập kiểm toán viên là không cần thiết và Hội đồng Trọng tài đã dựa vào các chứng cứ này để ban hành phán quyết là không phải sử dụng chứng cứ giả mạo và cũng không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
[2.5] Ngoài ra, Phía Công ty F cho rằng Hội đồng Trọng tài đã ban hành phán quyết sai vì tính toán phần lãi vượt quá mức lãi trung bình quá hạn trên thị trường theo Điều 306 Luật Thương mại, phân bổ chi phí luật sư quá cao. Xét thấy tại Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài cũng quy định rằng: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật này và các tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng Trọng tài đã giải quyết”. Do đó, nội dung này của Công ty F, hội đồng xét đơn không có thẩm quyền giải quyết.
[2.6] Như vậy, các lý do đề nghị hủy Phán quyết trọng tài của Công ty F không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại. Do đó, không có cơ sở hủy Phán quyết Trọng tài ngày 20/11/2020 của Trung tâm trọng tài X lập tại Thành phố H.
[2.7] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên họp có ý kiến: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần F về việc hủy phán quyết trọng tài. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của hội đồng xét đơn nên chấp nhận.
[2.8] Từ những nhận định trên không chấp nhận yêu cầu của Công ty F.
…………………………
Bởi các lẽ trên,
Căn cứ khoản 2 Điều 31, điểm a khoản 3 Điều 38, khoản 3 Điều 414 và
Điều 415 Bộ Luật tố tụng Dân sự 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 43, Điều 68, khoản 1 Điều 69, Điều 71, Điều 72 Luật Trọng tài thương mại;
Căn cứ Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài Thương mại.
QUYẾT ĐỊNH:
Bài viết trên MCAC đã nêu rõ các nội dung liên quan Những vấn đề về trọng tài thương mại thể hiện trong Quyết định số 300/2021/QĐ-PQTT ngày 09/3/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Để biết thêm thông tin chi tiết, vui lòng liên hệ qua hotline 0935 925 068 hoặc email contact@mcac.vn.
Quyết định số 09/2021/QĐ-PQTT ngày 14/10/2021 của TAND TP Hà Nội đã bác yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài giữa Công ty P và Công ty 4, khẳng định phán quyết được ban hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật và quy tắc tố tụng trọng tài.
Quyết định số 10/2021/QĐ-PQTT ngày 15/10/2021 của TAND TP Hà Nội không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài giữa Công ty BV và Công ty QC, khẳng định phán quyết đã tuân thủ đúng quy định pháp luật và thỏa thuận trọng tài.