Thời gian làm việc: T2-T6 / 8h00 – 17h00

|

Liên hệ: 0935 925 068 - 0236 3656799

| Ngôn ngữ:

Điện thoại: 0935 925 068

Ngôn ngữ:

CÁC TRƯỜNG HỢP HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

30/12/2025

Trọng tài thương mại ngày càng trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp được tin dùng bởi những ưu việt của phương thức này như tính bảo mật, linh hoạt trong thủ tục giải quyết và tính chung thẩm của phán quyết. Để đảm bảo cho kết quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục; bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên, pháp luật cho phép Tòa án can thiệp vào hiệu lực của phán quyết trọng tài bằng cơ chế hủy phán quyết trọng tài nếu thuộc các trường hợp luật định.

Bài viết này phân tích các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về các trường hợp hủy phán quyết trọng tài; chỉ ra các điểm bất cập, so sánh với pháp luật quốc tế và đề xuất kiến nghị sửa đổi nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế trọng tài tại Việt Nam.

1. Quy định pháp luật Việt Nam về căn cứ hủy phán quyết trọng tài

Theo Pháp lệnh Trọng tài năm 2003, bên không đồng ý với quyết định trọng tài có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định xem xét việc hủy Phán quyết trọng tài. Cách quy định này trao quyền yêu cầu hủy phán quyết tương đối rộng và dễ dẫn đến việc một bên lợi dụng sử dụng thủ tục hủy như một biện pháp kéo dài quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này làm suy giảm tính chung thẩm và ổn định của phán quyết trọng tài.

Kể từ ngày 01/01/2011, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (“Luật TTTM năm 2010) có hiệu lực đã giới hạn lại quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Luật này buộc bên yêu cầu phải có đủ căn cứ chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong các trường hợp quy định thì mới được yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Cụ thể, khoản 1 Điều 69 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định “nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”.

Căn cứ theo khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 quy định phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp sau:

a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;

b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;

d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài

đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Từ quy định này có thể thấy, phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu có các căn cứ sau:

Thứ nhất, căn cứ hủy phán quyết liên quan đến thẩm quyền

Theo điểm c khoản 2 Điều 11 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể rằng đây là trường hợp “Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại; hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu trọng tài giải quyết, hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài”.

Thứ hai, căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên quan đến thủ tục trọng tài

Phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp thành phần Hội đồng trọng tài hoặc thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên. Tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 quy định: “Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên.”

Hướng dẫn áp dụng quy định này, tại điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên.”

Ngoài ra, phán quyết trọng tài cũng bị hủy khi thành phần Hội đồng trọng tài hoặc thủ tục tố tụng trọng tài trái với các quy định bắt buộc của Luật Trọng tài thương mại. Tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 quy định: “Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài trái với các quy định của Luật này.”. Làm rõ nội dung này, tại điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP quy định: “Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định của Luật Trọng tài thương mại về thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy phán quyết trọng tài, nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại”.

Thứ ba, căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên quan đến nội dung phán quyết

Phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là chứng cứ giả mạo.

Theo hướng dẫn tại điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, “Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết. Tòa án phải căn cứ vào quy định của Luật Trọng tài thương mại, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.” Theo đó, việc tồn tại chứng cứ giả mạo trong hồ sơ vụ việc chưa đủ để làm căn cứ hủy phán quyết, mà còn phải chứng minh được mối liên hệ trực tiếp giữa chứng cứ giả mạo đó và nội dung phán quyết trọng tài.

Ngoài ra, phán quyết trọng tài cũng bị hủy trong trường hợp Trọng tài viên có hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài. Để áp dụng căn cứ hủy này, cần đồng thời đáp ứng hai điều kiện: (i) trọng tài viên có hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác từ một bên tranh chấp; và (ii) hành vi đó có tác động thực tế đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài.

Một trong những nguyên tắc nền tảng của trọng tài thương mại hiện đại là tính chung thẩm của phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài không phải là bản án sơ thẩm của Tòa án; do đó, Tòa án không được đóng vai trò là cấp phúc thẩm để xét xử lại tranh chấp. Nguyên tắc này được khẳng định rõ trong Luật Mẫu UNCITRAL và thực tiễn pháp luật của nhiều quốc gia[1], cụ thể:

(1) Đối với trường hợp sai về pháp luật

Đa số các hệ thống pháp luật trọng tài hiện đại, bao gồm Luật Mẫu UNCITRAL, pháp luật Pháp, Thụy Sỹ và Hoa Kỳ không coi sai về pháp luật là căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Một ngoại lệ mang tính lịch sử là pháp luật Anh, cho phép kháng cáo hạn chế về vấn đề pháp luật, nhưng cơ chế này có thể bị các bên loại trừ và trên thực tế được áp dụng rất hạn chế.[2]

(2) Đối với trường hợp sai về tình tiết

Sai về tình tiết, kể cả sai nghiêm trọng, về nguyên tắc không phải là căn cứ hủy phán quyết trọng tài. Việc đánh giá chứng cứ và xác định tình tiết thuộc thẩm quyền cốt lõi của Hội đồng trọng tài, và việc cho phép Tòa án xem xét lại vấn đề này sẽ làm suy giảm nghiêm trọng tính chung thẩm của trọng tài.

2. Những bất cập trong quy định hủy phán quyết trọng tài của pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, phạm vi căn cứ hủy phán quyết trọng tài còn mang tính mở, thiếu ranh giới rõ ràng

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định các căn cứ hủy phán quyết trọng tài tại Điều 68 theo hướng tiếp cận Luật mẫu UNCITRAL. Tuy nhiên, một số căn cứ, đặc biệt là căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, được xây dựng với nội hàm chưa được xác định rõ ràng, dẫn đến phạm vi áp dụng trên thực tế có xu hướng bị mở rộng.

Trong thực tiễn xét xử, khái niệm “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” đôi khi bị hiểu và vận dụng như một cơ sở để đánh giá lại lập luận pháp lý hoặc kết luận của Hội đồng trọng tài, thay vì chỉ được sử dụng để kiểm soát những vi phạm nghiêm trọng liên quan đến trật tự công. Điều này làm suy giảm tính chung thẩm của phán quyết trọng tài và tạo ra tâm lý thiếu an tâm cho các bên khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, chưa phân định rõ giữa vi phạm thủ tục tố tụng và việc xem xét lại nội dung tranh chấp

Theo Điều 68 Luật TTTM 2010, phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu “thành phần Hội đồng trọng tài hoặc thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với quy định của Luật này”. Tuy nhiên, luật hiện hành chưa thiết lập tiêu chí đánh giá mức độ nghiêm trọng của vi phạm thủ tục, cũng như chưa xác định rõ vi phạm nào đủ để làm phát sinh hậu quả hủy phán quyết.

Hệ quả là trong một số trường hợp, Tòa án có xu hướng đi sâu vào việc đánh giá cách thức thu thập và xem xét chứng cứ, lập luận của Hội đồng trọng tài, từ đó gián tiếp xem xét lại nội dung vụ tranh chấp dưới danh nghĩa kiểm tra thủ tục tố tụng. Cách tiếp cận này không chỉ đi ngược lại tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL mà còn làm mờ ranh giới giữa chức năng xét xử của trọng tài và chức năng kiểm soát tư pháp của Tòa án.

Thứ ba, thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng để khắc phục sai sót thay vì hủy phán quyết

Luật TTTM 2010 chưa thiết lập đầy đủ cơ chế cho phép Tòa án tạm đình chỉ việc xem xét yêu cầu hủy phán quyết để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục các sai sót có thể sửa chữa. Trong khi đó, theo Luật mẫu UNCITRAL và pháp luật của nhiều quốc gia, cơ chế trả lại phán quyết để sửa chữa (remission) được coi là giải pháp quan trọng nhằm bảo vệ giá trị của phán quyết trọng tài.

Việc thiếu cơ chế này dẫn đến thực tế là, trong nhiều trường hợp, Tòa án chỉ có hai lựa chọn: hoặc hủy phán quyết, hoặc bác yêu cầu hủy, trong khi vẫn tồn tại những sai sót về hình thức hoặc lập luận có thể được khắc phục mà không cần hủy toàn bộ phán quyết. Điều này làm gia tăng nguy cơ hủy phán quyết không cần thiết và kéo dài quá trình giải quyết tranh chấp.

.Từ những hạn chế nêu trên, có thể thấy việc hoàn thiện thể chế pháp luật về trọng tài thương mại, đặc biệt là pháp luật về huỷ phán quyết trọng tài, là yêu cầu cấp thiết nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, hạn chế sự tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật và thúc đẩy phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát triển bền vững.

3. Đề xuất hoàn thiện

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại (……….) thể hiện rõ định hướng lập pháp nhằm hạn chế sự can thiệp của Tòa án vào hoạt động trọng tài, qua đó tăng cường tính chung thẩm, hiệu lực và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài, phù hợp với Luật mẫu UNCITRAL và thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, để các quy định về hủy phán quyết trọng tài thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế, cần tiếp tục làm rõ nội hàm các căn cứ hủy, điều kiện áp dụng và phạm vi kiểm soát tư pháp của Tòa án, nhằm tránh nguy cơ Tòa án xét lại nội dung vụ tranh chấp dưới danh nghĩa xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Thứ nhất, đối với dự thảo Luật Trọng tại thương mại sửa đổi bổ sung bổ sung điểm a,b và đ khoản 2 Điều 68 về căn cứ hủy phán quyết trọng tài

“a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu; Tòa án không xem xét lại trường hợp này nếu đã có quyết định của Tòa án giải quyết khiếu nại về việc không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tài Điều …của Luật này.

b) Thành phần Hội đồng trọng tài, Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuậ

đ) Quy định rõ hơn nội hàm quy định “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận, quy định của pháp luật trong nước, đồng thời tham khảo Luật mẫu UNCITRAL và pháp luật các nước.

Dự thảo sửa đổi Điều 68 theo hướng làm rõ hơn các căn cứ hủy phán quyết, đặc biệt là căn cứ “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài” và căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Đây là bước điều chỉnh cần thiết nhằm khắc phục những bất cập đã phát sinh trong quá trình áp dụng Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

Tuy nhiên, Dự thảo hiện chưa xác lập rõ ranh giới giữa việc kiểm tra tính hợp lệ của thủ tục tố tụng trọng tài và việc đánh giá lại nội dung tranh chấp. Trong bối cảnh đó, nguy cơ Tòa án mở rộng phạm vi xem xét sang các vấn đề thuộc nội dung vụ việc, như đánh giá chứng cứ, tình tiết hoặc cách áp dụng pháp luật của Hội đồng trọng tài, vẫn còn hiện hữu.

Do đó, cần thiết phải bổ sung một nguyên tắc mang tính định hướng ngay trong Điều 68 hoặc Điều 71 theo hướng khẳng định rằng: Tòa án khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không được xem xét lại nội dung tranh chấp, không đánh giá lại chứng cứ, tình tiết vụ việc và việc áp dụng pháp luật của Hội đồng trọng tài, trừ trường hợp việc vi phạm thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn ngừa hiện tượng “hủy phán quyết trá hình do bất đồng quan điểm pháp lý”, vốn là một trong những nguyên nhân làm giảm niềm tin của doanh nghiệp vào cơ chế trọng tài.

Dự thảo hiện gộp nội dung liên quan đến “thành phần Hội đồng trọng tài” và “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài” trong cùng một điểm của Điều 68. Tuy nhiên, Dự thảo chưa xác lập tiêu chí pháp lý cụ thể để xác định thế nào là “vi phạm nghiêm trọng”. Để bảo đảm tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật, cần thiết phải cụ thể hóa nội hàm của khái niệm này.

Cách tiếp cận này phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là thực tiễn áp dụng Luật mẫu UNCITRAL tại các quốc gia thân thiện với trọng tài, đồng thời hạn chế việc các bên viện dẫn những vi phạm mang tính hình thức để yêu cầu hủy phán quyết.

Thứ hai, làm rõ và thu hẹp căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

Dự thảo đã thể hiện rõ yêu cầu phải “quy định rõ hơn nội hàm” của căn cứ phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Điều này cho thấy nhà làm luật đã nhận thức được đây là căn cứ dễ bị lạm dụng nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật trọng tài. Việc thu hẹp và làm rõ căn cứ này sẽ góp phần thống nhất thực tiễn xét xử và nâng cao tính dự đoán của cơ chế hủy phán quyết trọng tài.

Thứ ba, dự thảo bổ sung nội dung Điều 69 về quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Bổ sung khoản 3 theo hướng: 3. Các bên có thể thỏa thuận từ bỏ quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. (Hiện nay nhiều hệ thống trên thế giới như Bỉ, Pháp hay Thụy Sỹ đã có quy định cho phép các bên thỏa thuận từ bỏ quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài để giúp trọng tài hiệu quả hơn. Để trọng tài phát triển một cách mạnh mẽ ở Việt Nam theo xu hướng hội nhập sâu, rộng của Việt Nam, để phù hợp hơn với Luật mẫu UNCITRAL, cần bổ sung quy định này).

Dự thảo lần đầu tiên đề xuất cho phép các bên trong tranh chấp được thỏa thuận từ bỏ quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đây là một bước tiến đáng ghi nhận, thể hiện sự tiệm cận với pháp luật của các quốc gia có truyền thống trọng tài phát triển, đặc biệt là Thụy Sĩ.

Thứ tư, dự thảo sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 71 về việc Toà án xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo hướng:Theo yêu cầu của một bên hoặc của Hội đồng trọng tài hoặc của Tòa án và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót trong quá trình tố tụng trọng tài (bổ sung khả năng sửa cả sai sót nội dung) theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”.

Dự thảo cho phép Tòa án tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót, kể cả “sai sót nội dung”. Quy định này về cơ bản phù hợp với cơ chế “remission” theo Luật mẫu UNCITRAL, nhằm ưu tiên bảo vệ phán quyết trọng tài thay vì hủy bỏ.

Tuy nhiên, cần làm rõ rằng “sai sót nội dung” trong trường hợp này không bao gồm việc sửa đổi bản chất hoặc kết quả của phán quyết, mà chỉ giới hạn ở việc giải thích phán quyết, sửa chữa các lỗi rõ ràng hoặc hoàn thiện lập luận nhằm loại bỏ căn cứ hủy. Bên cạnh đó, cần quy định nghĩa vụ thông báo và lấy ý kiến của các bên trước khi Hội đồng trọng tài thực hiện việc khắc phục, nhằm bảo đảm tính minh bạch và quyền tham gia tố tụng của các bên.

Thứ năm, dự thảo bổ sung Điều 72a (điều mới) liên quan đến cơ chế xem xét quyết định hủy phán quyết trọng tài

Dự thảo đưa ra hai phương án về cơ chế xem xét quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài. Trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam còn tồn tại sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng các căn cứ hủy phán quyết, việc thiết lập một cơ chế kiểm soát ở cấp cao hơn là cần thiết.

Theo đó, nên lựa chọn phương án theo hướng: quyết định không hủy phán quyết trọng tài của Tòa án cấp tỉnh có hiệu lực chung thẩm; trong khi đó, quyết định hủy phán quyết trọng tài phải được xem xét và phê chuẩn bởi Tòa án nhân dân tối cao. Cơ chế này vừa góp phần hạn chế việc lạm dụng hủy phán quyết, vừa bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng pháp luật và tăng cường mức độ bảo vệ đối với phán quyết trọng tài.

 

Bài viết trên đã phân tích chi tiết vấn đề "Các trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo pháp luật việt nam và định hướng hoàn thiện pháp luật". Để biết thêm thông tin chi tiết hoặc cần hỗ trợ pháp lý, vui lòng liên hệ Ban thư ký MCAC:

 

[1] Emmanuel Gaillard, Legal Theory of International Arbitration, Brill, 2010.

[2] Arbitration Act 1996 (UK), s.69.

Tin liên quan

NHỮNG ĐIỂM ĐỔI MỚI NỔI BẬT CỦA DỰ THẢO SỬA ĐỔI LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
26 12/2025

NHỮNG ĐIỂM ĐỔI MỚI NỔI BẬT CỦA DỰ THẢO SỬA ĐỔI LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Phân tích chi tiết những nội dung sửa đổi mới nhất trong Dự thảo Luật Trọng tài thương mại. Tìm hiểu về thẩm quyền và định hướng phát triển của trọng tài tại Việt Nam cùng MCAC

100 GIẢI ĐÁP VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
23 12/2025

100 GIẢI ĐÁP VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

100 Giải Đáp Về Trọng Tài Thương Mại do MCAC biên soạn, tổng hợp các vấn đề pháp lý cốt lõi về trọng tài thương mại, quy trình giải quyết tranh chấp, thẩm quyền, phán quyết trọng tài và giá trị thi hành theo pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Liên hệ với TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI MIỀN TRUNG