Điện thoại: 0935 925 068
03/11/2022
Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định các trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại (căn cứ theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010).
“Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.”
Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại đòi hỏi các bên trong tranh chấp đều phải có hoạt động thương mại. Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại, đầu tư và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại là thương nhân, bao gồm thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài.
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại cũng bao gồm hoạt động của các cá nhân dưới hình thức tự mình hàng ngày thực hiện các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh.
Theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài là giải quyết các vụ tranh chấp mà trong đó chỉ cần có 1 bên tranh chấp là thương nhân, thực hiện hoạt động thương mại. Còn các bên còn lại có thể không phải là thương nhân hay cá nhân thực hiện hoạt động thương mại.
Điều này được hiểu chỉ cần một bên trong tranh chấp có hoạt động thương mại, bên còn lại có thể tham gia quan hệ với các mục đích phi lợi nhuận như tiêu dùng, nhu cầu cá nhân,…
Như vậy, tranh chấp giữa một thương nhân và các cá nhân hay tổ chức không kinh doanh cũng có thể được giải quyết bởi Trọng tài thương mại. Trong quan hệ với các bên có hoạt động thương mại, các bên này có thể là người tiêu dùng, Tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh không thuần túy là tranh chấp kinh doanh thương mại nhưng nó vẫn thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Đó có thể là tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao động khi người lao động là chủ thể có hoạt động thương mại,....
Trong trường hợp thứ ba chỉ cần trong pháp luật chuyên ngành có quy định tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài thương mại, tiêu chí hoạt động thương mại không được đặt ra.
Hiện nay có một số luật đã quy định những trường hợp tranh chấp tuy không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng cho phép các bên lựa chọn trọng tài. Vì vậy, việc quy định như khoản 3 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại đã ghi nhận một thực tế đang tồn tại.
Ở đây, khi có quy định của pháp luật, chỉ cần căn cứ vào các điều kiện của quy định này để xác định trọng tài có thể giải quyết tranh chấp hay không và không phải quan tâm tới các tiêu chí được quy định tại 2 trường hợp trên.
Đọc thêm: Điều Khoản Giải Quyết Tranh Chấp Trong Hợp Đồng
Với những chia sẻ của MCAC về quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trên đây có lẽ sẽ giúp bạn giải đáp được thắc mắc về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài.
Phân tích Quyết định số 04/2019/QĐ-PQTT ngày 21/5/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội về yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ, với các lập luận về thẩm quyền trọng tài và nguyên tắc pháp lý cơ bản.
Bài viết sau đây nêu rõ các vấn đề liên quan đến nguyên tắc tự do thoả thuận - nền tảng của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với các nội dung liên quan đến quyền lựa chọn trọng tài viên, ngôn ngữ, địa điểm và hệ thống pháp luật áp dụng.